Friday, April 12, 2024

dân quân biển, tàu Nam ngư 402,407, hải chiến hoàng sa 19/01/1974, nguyệt thiềm, gerald kosh, maritime militia


LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN BIỂN (Maritime Militia) TRONG BIẾN CỐ HOÀNG SA 19/01/1974

                         (trích trong "Sự Thật Hải Chiến Hoàng Sa 19/01/1974")

                                                                                   Thềm Sơn Hà

                                 Tàu đánh cá võ trang Nam Ngư (Nan Yu)      

Các “tàu đánh cá” TC đã được tự do ra vào trong hải phận của nhóm Nguyệt Thiềm từ nhiều năm qua. Vì các tàu đánh cá này bề ngoài có vẻ chú tâm vào hoạt động đánh cá thương mại nên sự hiện diện thường xuyên của họ trong hải phận của VNCH không bị cản trở.          
Loại tàu này được sử dụng vào cả 2 mục đích quân sự và thương mại tùy theo nhu cầu vì thế ngoài các hoạt động đánh cá, những tàu đánh cá này còn phục vụ như là nền tảng cho việc thu thập tin tức tình báo. Với sự ra vào hoàn toàn không bị giới hạn đến các khu vực được lựa chọn là mục tiêu tối hậu trong nhóm Nguyệt Thiềm gồm các đảo không người Quang Hòa, Duy Mộng, Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, thủy thủ đoàn của các “tàu đánh cá” đã có cơ hội chụp hình mỗi đảo, cập nhật hóa trên hải đồ những vùng nước cạn và thám sát các bãi đổ bộ sử dụng sau này. 
Đối với đảo Hoàng Sa là đảo có Địa phương quân (ĐPQ) trú đóng, TC dùng thủ đoạn lợi dụng lòng nhân đạo và tính hiếu khách của người Việt để thu thập tin tức.  

Viên chức DAO Gerald Kosh đã được người Việt Nam trú đóng trên đảo Hoàng Sa cho biết là nhiều lần trong khoảng mùa Thu năm 1973, một phái đoàn thiện chí TC đổ bộ lên đảo. Mỗi lần như vậy, một toán đổ bộ từ tàu đánh cá lên đảo và tặng quà “như thực phẩm và nước uống” cho toán lính VNCH trú đóng trên đảo. Mặc dù bày tỏ mục đích thân thiện qua những lần thăm viếng nhưng qua sự quen thuộc với địa hình của đảo Hoàng Sa mà lực lượng tấn công đã chứng tỏ cho thấy một cách hùng hồn là những phái đoàn “thin chí” này thật ra chỉ là những toán thu thập tình báo.[2]       
Toà Đại sứ HK ở Sài Gòn cũng xác nhận là trước tháng 10-1973 đã xảy ra vài lần giao thiệp có tính cách xã giao giữa lực lượng hai bên trong quần đảo HS. (văn thư ngày 30/10/1973 TĐS/HK/SG gởi BNG/HK)
Ngoài ra chúng còn quan sát và theo dõi các hoạt động định kỳ thay toán ĐPQ và toán khí tượng trên đảo Hoàng Sa của chiến hạm Hải quân VNCH.       

Đ
im cn nhấn mạnh là các tàu đánh cá này không phi ca tư nhân mà chúng là lc lượng bán quân s ‘dân quân bin’ (maritime militia), trc thuc hi quân TC và được trang b vũ khí, chúng va hot động thương mi va thi hành các công tác do thám.
Tài liệu CIA ghi nhận không thám HK phát hiện tàu đánh cá _TRAWLER_ trong các căn cứ Hải quân TC rất nhiều lần kể từ tháng 3/1973 qua hai bằng chứng điển hình:

Và trong tháng 01/1974 tại căn cứ Yulin  cách căn cứ Hsin Hsing về hướng Nam 100 hải lý.
Jane’s Fighting Ships 80-81 viết: “Trong những năm đầu của thập niên 1950, một số tàu viễn duyên và những đoàn tàu đánh cá duyên hải đã được tổ chức thành lực lượng dân quân biển. Các tàu đánh cá này đặt dưới sự kiểm soát của chi nhánh đảng bộ địa phương, mang theo đoàn viên của Đoàn Thanh niên Cộng sản và khi cần họ sẽ thi hành công tác yểm trợ hoặc như là phương tiện che đậy hoạt động bất hợp pháp hay bí mật cho lực lượng Hải quân. Công tác thường lệ của họ là do thám và theo dõi nhưng trong nhiều trường hợp họ đã được trang bị súng đại liên (trường hợp quần đảo Hoàng Sa năm 1974).”         

Dựa trên tài liệu của Bộ Lục quân HK [1], “Hoàng Sa qua những nhân chứng” của Trần Thế Đức [4] “Bên lề trận hải chiến Hoàng Sa” của Trần Kim Diệp [5] thì TC đã dùng loại tàu này để do thám, theo dõi, dò xét, thám sát thủy đạo và địa hình, chuyên chở quân lính với mục đích sau cùng là cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa.

Theo Blechman trong “Guide To Far Eastern Navies” thì các triều đại vua chúa Trung Hoa ngày trước đã dùng các đoàn tàu đánh cá để do thám và theo dõi và TC đã tiếp tục áp dụng chiến thuật này:         
“Trong biến c qun đảo HS năm 1974, dân quân TC đã đụng độ vi toán bit kích VNCH đảo Cam Tuyn …. nhng hình nh đã được Sài Gòn ph biến sau biến c đã cho thy các cây súng đại liên c ln trên các tàu đánh cá TC.” [6]

    “… rt nhiu tàu đánh cá TC trang b vũ khí……và thc hin công tác đôi va là tàu tun tiu kiêm ngh đánh cá va là tàu đánh cá…” [7]

 “…tàu đánh cá l nguyên hình tàu chiến, đài ch huy có 2 cây đại liên, sườn tàu để h các ô vuông cha súng ra . [4]


Sự việc tàu đánh cá TC có trang bị vũ khí đã được HQ 4 báo cáo trong ngày 17/01 khi tiếp cận chúng: “hai tàu này cùng loi mang s 402 và 407, dài 35 mét, ngang 6 m, trng ti khong 140 tn, tàu sơn màu xanh đậm. Mi tàu có 1 khu đại bác 25 ly vi băng đạn phía sau ng khói, nòng súng l ra ngoài.

Tuy nhiên qua ngày hôm sau 18/01 chúng lại che đậy vũ khí qua nhận xét của Kosh:         
“Trong ngày hôm đó Kosh thấy tàu đánh cá số 407 cố tình ép chiến hạm VNCH là HQ 4 (Khu trục hạm Trần Khánh Dư) vào vùng đá ngầm. Tuy nhiên vào lúc bấy giờ, tàu TC có vẻ như là một tàu đánh cá được điều khiển bởi một thủy thủ đoàn cỡ bình thường, mặc đồ xanh loại tập thể dục (sweatsuit) và đội nón rơm. Điều thật ngộ nghĩnh là trong lúc tàu đang có hành động khiêu khích, một vài nhân viên vẫn dùng cần câu bằng tre và quăng dây câu xuống nước. Trong khoảng thời gian từ 14 đến 20 tháng 1, không thấy có chiếc tàu đánh cá nào có mang theo lưới cá, lúc ban đầu Kosh đã xem chúng như là một loại tàu đánh cá vì chúng không có vẻ giống như chiến hạm.” [1]           
Ngoài các nhiệm vụ kể trên, tàu đánh cá còn thi hành công tác đặt mìn và TC đã ngụy trang chúng thành tàu phóng thủy lôi để đánh chìm chiến hạm Trung hoa Quốc gia trong cuộc chiến Quốc Cộng [6].
           
Trong biến cố Hoàng Sa, TC đã dùng tất cả 6 chiếc tàu đánh cá mang số 401, 402, 405, 406, 407 và 408, trong số này chiếc 402 tên là Hải Ngư và 407 tên là Nam Dinh (hay Nam Định) đã được các chiến hạm VNCH nhận dạng từ ngày 15/01/1974 và dựa theo tài liệu của BLQ/HK/PTB thì 6 chiếc này đã có mặt trong những lần thao dượt xuất phát từ căn cứ Pei Hai (Bắc Hải) trong tháng 12/1973 hoặc có thể diễn ra sớm hơn vào khoảng tháng 9/1973 [1].

- Đổ b tn công đảo Cam Tuyn (đảo Hu Nht):

TC đã sử dụng 2 tàu đánh cá (số 407 và chiếc kia không rõ số), thả xuống 30 bè chở khoảng từ 200 đến 240 lính bộ binh (mỗi bè chở từ 6-8 người).

- Đổ b tn công đảo Hoàng Sa: không quan sát được diễn tiến, nhưng có lẽ TC cũng sử dụng 2 tàu đánh cá đưa lực lượng đổ bộ khoảng 2 đại đội vào bờ.

Qua kinh nghim biến c HS, có th kết lun lc lượng tàu đánh cá ngy trang ca TC là mt lc lượng rt nguy him không nhng trong thi chiến mà c trong thi bình.     
Cũng theo Blechman trong quyển sách của ông viết vào năm 1978 thì TC tiếp tục đóng hàng trăm chiếc tàu đánh cá võ bằng thép và hầu hết được trang bị súng đại liên hạng nặng. Như vậy đã chứng tỏ chủ ý của TC là sẽ còn tiếp tục sử dụng chúng trong vùng biển Đông nhất là trong khu vực quần đảo Trường Sa để thi hành các công tác tương tự như đã thực hiện ở Hoàng Sa, hơn nữa cũng để theo dõi hoạt động của các chiến hạm Đệ thất Hạm đội và các chiến hạm Đồng Minh.        

Đây là điều mà các lực lượng bộ binh Cộng sản Việt Nam (CSVN) trú đóng trên các đảo và các chiến hạm tuần ti
ễu ngoài khơi trong khu vực quần đảo Trường Sa lúc nào cũng cần phải đề cao cảnh giác.     
Tuy nhiên vẫn còn mối nguy hiểm khác là trong tương lai TC có thể dùng tàu đánh cá ngụy trang để tạo nên các vụ xung đột với các ngư phủ hoặc các chiến hạm CSVN (những vụ thảm sát ngư phủ Việt Nam trong vùng Biển Đông có thể đã có liên hệ đến các tàu đánh cá này ???)  và các trường hợp này như là ngòi nổ để TC tạo nên biến động lớn hầu xua quân chiếm đoạt Trường Sa.      
Điều này các chức quyền liên hệ trong chánh phủ CSVN hiện tại phải cần quan tâm đặc biệt để có những biện pháp thích ứng hầu đề phòng và đối phó. **          
Đặ
c tính tàu đánh cá Nam Ngư            
Qua sự quan sát từ HQ 4 trong lần chạm trán với chúng trong ngày 17 tháng 1, loại tàu này dài khoảng 35 mét, chiều ngang khoảng 6 m, trọng tải khoảng 140 tấn
, tàu sơn màu xanh đậm. Buồng điều khiển nằm ở giữa tàu, ống khói cách mũi tàu khoàng 2/3, tàu có 2 cần trục: 1 ở phía trước và 1 ở phía sau. Tàu trang bị 2 trụ antenna trên boong,
Võ tàu bằng thép, bánh lái có hình chữ V, có nhiều bè sơn màu đỏ và trắng, 3 tiểu đĩnh sơn màu trắng.
Trên một trong hai chiếc còn có 1 tiểu đĩnh bằng thép.         
Tàu trang bị 1 khẩu đại bác 25 ly với ỗ đạn và nòng súng lộ ra ngoài nằm bên hông phải trên phòng lái phía sau ống khói và một số vũ khí cá nhân chứa dưới khoang tàu.          
Trên boong tàu từ 30-35 người mặc đồ xanh dương đậm quan sát chiến hạm VNCH [7a].
Thủy thủ đoàn khoảng chừng 15 người, nhưng tàu có khả năng chở đến 100 quân lính khi dùng vào mục tiêu quân sự (sau khi 2 chiếc tàu đánh cá tiến vào, một lực lượng hơn 100 lính TC xuất hiện trên boong của mỗi chiếc và bắt đầu nhanh nhẹn chuyển xuống nước những chiếc bè cao su màu đen) [1]





 

Thursday, April 4, 2024

trường sa, tháng 4-1975, hải quân vnch, đoàn 125, tàu 673,674,675, sl-8,sl-4, địa phương quân, song tử tây, sơn ca, sinh tồn, trường sa, an bang, nam yết,hq 16, đô đốc chung tấn cang, hq14, hq17, nguyễn xuân sơnđại tá

 

                             Trường Sa tháng 4 năm 1975

                                                                                                              Thềm Sơn Hà

Ngày 20 tháng 1 năm 1974, Trung Cộng (TC) cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Lo ngại TC sẽ thừa cơ hội tiến chiếm quần đảo Trường Sa (TS), Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lịnh cho Hải Quân VNCH mở cuộc hành quân chiếm thêm 5 đảo ở Trường Sa.

 Ngày 1 tháng 2 năm 1974, lực lượng hành quân đã đổ bộ Địa Phương Quân (ĐPQ) lên đảo đầu tiên là đảo Song Tử Tây. [1]

Chỉ trong vòng hơn một năm, Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) cũng có cùng mối lo như VNCH và cũng đã hành động tương tự qua nhận xét của Đại Sứ Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân William Sullivan trong điện văn báo cáo về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (BNG/HK) : “Trong một thời gian, tôi đã lo ngại là những diễn tiến hiện nay tại Việt Nam sẽ khơi dậy lòng ham muốn của TC để chiếm đoạt quần đảo TS và các đảo tranh chấp trong Biển Đông … bây giờ đã cho thấy là Hà Nội cũng có điểm lo ngại tương tự và đã ra tay trước để ngăn chận TC, ít nhất là những hòn đảo do VNCH chiếm đóng”. [2]

Chun b
Quyết định đánh chiếm các đảo hiện do ĐPQ trấn giữ đã được Quân Ủy Trung Ương CSBV ban hành ngày 30-3: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Thường vụ giao Khu ủy và Bộ tư lệnh B1 nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các đảo hiện do quân chính quyền miền Nam đang chiếm đóng”

Mười ngày sau, Quân Ủy Trung Ương ra lịnh cho Bí thư Khu ủy Khu V Võ Chí Công và Chính ủy chiến dịch Huế – Đà Nẵng Chu Huy Mân cùng phó tư lệnh hải quân Hoàng Hữu Thái: “Chỉ thị cho các lực lượng ta hành động kịp thời theo phương án đã định”.

Thi hành lịnh thượng cấp, 3 tàu mang số 673, 674 và 675 thuộc đoàn 125 đã rời Hải Phòng trực chỉ Đà Nẵng và đã cập cảng Tiên Sa vào 21g đêm 10-4-1975, tại đây đội 1 của đoàn 126 đặc công nước cùng một lực lượng đặc công của sư đoàn 2 – Quân khu 5 được đưa xuống tàu.

Từ Tiên Sa, trong đêm tối cả ba tàu 673, 674 và 675 được ngụy trang thành tàu đánh cá mang cờ hiệu nước ngoài. Chỉ huy lực lượng tiến chiếm các đảo thuộc VNCH ở Trường Sa là Lữ đoàn trưởng đặc công nước Mai Năng. [3] 
Căn cứ theo tài liệu của Hải quân Hoa Kỳ, Đoàn 125 (thối thân của Đoàn 759 được thành lập từ năm 1961) của CSBV có tất cả 8 loại tàu chuyển vận SL trang bị vũ khí được đặt tên từ SL-1 đến SL-8. Trong khoảng thời gian từ 16/02/1965 (phát hiện ở Vũng Rô) đến 24/04/1972 (phát hiện ở Phú Quốc) tàu chuyển vận của đoàn 125 đã thực hiện tổng cộng 51 chuyến công tác xâm nhập tiếp tế miền Nam, trong số này loại tàu SL-4 đã được sử dụng 22 lần.


  

Qua các hình ảnh dẫn chứng ở phần trên xác nhận đoàn 125 đã sử dụng 3 tàu chuyển vận mang số 673, 674 và 675 thuộc loại SL-1 thi hành công tác chiếm đóng Trường Sa tháng 4-1975.

Tình trng chiếm đóng ngoài Trường Sa


- Việt Nam Cộng Hòa: Đảo Nam Yết (đây là đảo đầu tiên trong quần đảo Trường Sa mà chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa đã chánh thức thiết lập sự hiện diện thường trực từ tháng 8-1973, và cũng là Bộ chỉ huy của các lực lượng đồn trú trong vùng), Đảo Song Tử Tây, Đảo Sơn Ca, Đảo Sinh Tồn, Đảo Trường Sa và Đảo An Bang (5 đảo này chiếm từ 2-1974). [1]

Tổng số Địa Phương Quân (ĐPQ) trú đóng trên 6 đảo khoảng 150 người, riêng Đảo Song Tử Tây có 29 ĐPQ và 4 nhân viên dân sự điều hành trạm truyền tin và khí tượng. [4]

- Đài Loan: Đảo Ba Bình (Thái Bình), tháng 7-1971, Đài Loan tăng cường quân số TQLC trên đảo Ba Bình lên đến khoảng 500 người.

- Phi Luật Tân: Đảo Song Tử Đông (Northeast Cay-Parola Island), đảo Thị Tứ (Thitu Island-Pagasa Island), đảo Loại Tá (Loaita Island-Kota Island), đảo Vĩnh Viễn (Nanshan Island-Lawak Island), đảo Dừa (West York Island-Likas Island) và Đảo Bình Nguyên (Flat Island-Patag  Island). Trong tháng 5-1963, Hải Quân VHCH đã dựng bia chủ quyền trên các đảo Song Tử Đông, Thị Tứ và Loại Tá. [5]

Hiện tại khoảng khoảng một Đại đội TQLC Phi với đầy đủ cấp số đang trú đóng trên 6 đảo này.

Din tiến
4 giờ sáng 11-4, Phó TL/HQ/CSBV Hoàng Hữu Thái ra lịnh toán đặc nhiệm thẳng tiến ra Trường Sa và  Đảo Song Tử Tây được chọn là mục tiêu đầu tiên. Chiều 13-4-1975 đoàn tàu đến vị trí tiếp cận đảo.

Khoảng 1g sáng 14-4-1975, đội 1 đặc công chia làm ba mũi rời tàu 673, dùng xuồng đổ bộ lên đảo. Các tàu 674 và 675 làm nhiệm vụ án ngữ phía bên ngoài. Lúc này trên đảo Song Tử Tây trời còn tối đen, toán ĐPQ trên đảo vẫn thi hành nhiệm vụ tuần tiễu như thường lệ, thỉnh thoảng có vài ánh đèn tuần tra loé lên. Toán tấn công có hai mũi đổ bộ an toàn, mũi còn lại gặp trở ngại không thể tiếp cận đảo do sóng quá to, khoảng hơn một giờ sau mới lên được đảo. Đến 4g30 sáng 14-4, sau phát ĐKZ đầu tiên làm hiệu lịnh, lính CSBV đồng loạt nổ súng, ĐPQ  trên đảo Song Tử Tây vì bị tấn công bất ngờ nên mặc dù đã nổ súng chống trả, nhưng cuối cùng sau 30 phút giao tranh họ đã đầu hàng. Kết quả lực lượng ĐPQ có 7 chiến sĩ hy sinh và 33 người bị bắt làm tù binh.

Về phía CSVN có hai người hy sinh, một người hi sinh ngay tại đảo một người bị thương, theo tàu về đất liền và sau đó chết.  
(Tuổi Trẻ Online 23/04/2020 “Trường Sa, tháng 4 lịch sử 1975 - Kỳ 2: Hai liệt sĩ đầu tiên ở Trường Sa”).

Chiếm đảo xong, cờ của Mặt trận Giải Phóng được kéo lên (có bài viết cho là cờ đỏ sao vàng, một vài bài khác gọi là cờ tổ quốc). [3]

Cách đảo Song Tử Tây về hướng Đông Bắc khoảng 3 km là đảo Song Tử Đông do Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Phi chiếm đóng và trong khu vực này đang có một tàu trục vớt của Phi đang hoạt động.  Thuyền trưởng tàu trục vớt báo cáo là ông thấy lá cờ trên đảo Song Tử Tây đã được thay thế và toán TQLC Phi xác nhận là CSBV đã chinh phục đơn vị VNCH trên đảo và đã nắm quyền kiểm soát.” [4]

Vì bị tấn công bất ngờ, toán lính ĐPQ phòng thủ đảo đã không kịp thới báo cáo về bộ chỉ huy đặt trên đảo Nam Yết, và đảo gần nhất do VNCH kiểm soát lúc bấy giờ là đảo Sơn Ca ở quá xa nên không nghe thấy các diễn tiến (cách nhau khoảng 110km), do vậy các tin tức về biến cố xảy ra trên đảo Song Tử Tây đều qua trung gian của Phi Luật Tân.

Theo HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn Tư Lệnh Hạm đội “ Khoảng hai tuần lễ trước khi Saigon sụp đổ, chúng tôi bắt đầu gặp khó khăn ngoài đó, tôi không nhớ quảng thời gian nào, tùy viên quân sự Phi Luật Tân ở Saigon đến gặp tôi.  Chúng tôi là bạn bè mấy tháng nay, và ông ta hỏi tôi nhận được báo cáo như thế nào từ vùng xa xôi  miền nam.  Tôi trả lời thường lệ.  Ông ta nói ông nhận được phúc trình từ các binh sĩ rằng có bắn nhau trên một trong các đảo của chúng tôi.  Việc này nghe rất lạ.  Nó xảy ra sau vụ sụp đổ  Đà Nẵng, Huế, Qui Nhơn và Cam Ranh vì vậy tôi gọi Bộ Tư lệnh Hải quân và hỏi phòng Hành quân có chuyện gì ngoài đó không.  Họ trả lời mọi chuyện đều bình thường ngoại trừ việc mất liên lạc với một hòn đảo trong hai ngày vừa qua. Do đó tôi nghĩ rằng có thể có vấn đề.  Khi họ liên lạc với vị chỉ huy đảo và hỏi về bản báo cáo cuối cùng đã nói gì.  Ông ta nói báo cáo cuối cùng cho biết có vài tàu tiếp cận đảo và sau đó mất liên lạc.  Vì thế Bộ Tư lệnh Hải quân bắt đầu lo lắng và tôi đề nghị chúng tôi gởi một Chỉ huy trưởng Hải đội ra đó, chúng tôi đã làm việc này.  Ông ta lên một chiến hạm và trực chỉ ra vùng để xem xét, khi đến gần đảo (LTG:đảo Song Tử Tây), ông thấy một lá cờ Mặt Trận Giải Phóng.  Tôi nghĩ rằng có thể đây là một cuộc nổi loạn và chúng tôi lên bờ một hòn đảo bên cạnh do Phi Luật Tân chiếm giử (LTG: đây là đảo Song Tử Đông), chúng tôi nói chuyện với họ và biết được là có một tàu nhỏ bằng cao su đổ bộ lên đảo, có bắn nhau và sau đó có sự thay đổi lá cờ, và lính được gởi ra đó để chiếm giử đảo.  Lực lượng xâm chiếm nhiều, ít ra sao, chúng tôi không rõ.  Sau khi mất hòn đảo, chúng tôi quyết định rút ra khỏi các đảo khác từ năm đảo mà chúng tôi có ngoài đó.  Chúng tôi đem người ra khỏi đảo, bốn đảo trong số đó, chúng tôi không  biết về số phận của những người trên đảo thứ năm.[6]

Điện văn do Đại Sứ HK ở Manila trong ngày 16-4, và điện văn đầu tiên do Đại Sứ HK ở Sài Gòn Martin gởi về Hoa Thịnh Đốn trong ngày 18-4 cho biết là BTL/Hải Quân/ VNCH đã nhận được nguồn tin do Phi cung cấp như sau: “ngày 14-4, một chiếc tàu không rõ quốc tịch đã đưa toán đặc công lên đảo Song Tử Tây. Ngay sau đó họ đã nghe tiếng nỗ và thấy lá cờ của Mặt Trận Giải Phóng bay trên đảo”. [4]


 Ngày 17-1, Bộ Tư Lệnh HQ đã cấp thời điều động Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ 16 * do HQ Trung Tá Lê Văn Thì làm Hạm Trưởng  lúc bấy giờ đang tuần tiễu trong khu vực đảo Nam Yết, trực chỉ đảo Song Tử Tây quan sát tình hình. Chiến hạm không vào sát đảo, nhưng đã báo cáo thấy có người di chuyển và xác nhận là cờ của Mặt Trận Giải Phóng đang bay trên đảo Song Tử Tây.         

Tư Lịnh HQVN Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang tuyên bố là HQ 16 sẽ lấy quân từ các đảo còn lại và tái chiếm đảo Song Tử Tây khi thuận tiện.” [4]                   
Ngoài ra Đại Sứ Martin còn viện dẫn nguồn tin từ hảng thông tấn AP ở Sài Gòn trong bản tin ngày 18-4 cho là lính phòng thủ trên đảo Song Tử Tây đã chạy xuống nước và bơi ra ngoài khi họ thấy 3 chiếc tàu Trung Cộng tiến vào gần đảo mặc dù các tàu này không có dấu hiệu đưa người lên bờ.  Ông cho biết là sẽ tiếp xúc chặt chẽ với HQVN để lấy được các tin tức chính xác những gì đã xảy ra và để xác nhận là lực lượng TC hay CSBV đã can dự vào cuộc tấn công lên đảo Song Tử Tây.[4]

Ngày 19-4,Tòa Đại Sứ HK tại Đài Bắc đã tiếp xúc với  Sĩ Quan phụ trách tình báo của Hải quân Đài Loan và đã được xác nhận là Đài Loan không có  chiến hạm nào hoạt động trong vùng Trường Sa và họ không tham dự vào cuộc  tấn công lên đảo Song Tử Tây, vị SQ này cho biết thêm là chiến hạm Đài Loan chỉ thi hành các chuyến công tác tiếp tế và thay quân trên đảo Ba Bình theo định kỳ mỗi 3 tháng, chuyến công tác sau cùng các chiến hạm đã trở về Đài Loan ngày 15-2-1975. 
 Đài Loan tin là 2 đảo Sơn Ca và Nam Yết vẫn còn do lực lượng VNCH kiểm soát. Lực lượng Đài Loan đã nhận được chỉ thị theo dõi sát tình hình trên 2 đảo này. [7]

Vì đảo Song Tử Đông do Phi chìếm đóng chỉ cách đảo Song Tử Tây  khoảng 3 km (1,6 mile), nên lực lượng Phi đã được đặt trong tình trạng báo động. Sự kiện đáng kể đã xảy ra trong ngày 19-4, khi một ĐPQ tên Nguyễn Hùng từ đảo Song Tử Tây đã sang đầu thú đơn vị Phi trên đảo Song Tử Đông, ĐPQ này đã cung cấp chi tiết về cuộc đổ bộ chiếm Song Tử Tây của CSBV và cho biết là toán lính đồn trú sau khi đầu hàng đã được đưa về Đà Nẵng, lính CSBV đã cũng cố hệ thống phòng thủ ở hướng đối diện với đảo Song Tử Đông và sau cùng anh đã nghe lén được là lực lượng CSBV sẽ tấn công đảo Song Tử Đông trong ngày 21-4 ngay sau khi tàu của họ từ đất liền ra đảo. Ngày 30-4, người ĐPQ này đã được đưa về Manila để tiếp tục thẩm vấn. [8]

Điểm đáng nghi ngờ ở đây là đảo Song Tử Tây đã thất thủ từ ngày 14-4. Toán ĐPQ đã bị bắt làm tù binh và đưa về Đà Nẵng. Với diện tích quá nhỏ khoảng 0.2 km2, lực lượng CSBV trên đảo không lẽ lại để người lính này lọt lưới qua đầu thú lực lượng Phi?  Và sao lại phải mất đến 5 ngày mới qua đến đảo Song Tử Đông trong khi khoảng cách giữa hai đảo chỉ khoảng 3 km?

Ngày 20-4-1975 Thiếu Tướng Mai Năng nhận lịnh tiến chiếm 5 đảo còn lại.

Đêm 24 tháng 4, tàu 641 chở quân tiến đánh Sơn Ca. Lính Đài Loan trên đảo Ba Bình thấy tàu 641 đi qua nhưng chỉ bắn pháo sáng để quan sát. 1 giờ 30 phút rạng ngày 25 tháng 4, ba trung đội của đoàn 126 đổ bộ lên đảo Sơn Ca. 2 giờ 30 phút, cuộc tấn công bắt đầu. 2 binh sĩ QLVNCH chết ngay trong loạt đạn đầu tiên, 23 người còn lại kéo vào công sự ẩn nấp và ra hàng lúc 3 giờ 00
Đúng 2g sáng 25-4, Cộng quân đổ bộ lên đảo Sơn Ca, khoảng 3 giờ sáng đảo Sơn Ca mất.

Ngày 25-4, Tổng Thống Phi Marcos đã có buổi nói chuyện riêng với Đại Sứ Sullivan, ông tỏ ý lo ngại về ý định của CSBV trong quần đảo Trường Sa và cho là đã có dấu hiệu cho thấy Hà Nội có ý muốn chiếm trọn quần đảo này (có thể dựa vào lời khai của người lính ĐPQ đã sang đảo Song Tử Đông đầu thú). [9]

Ngày 27-4, đảo Nam Yết và đảo Sinh Tồn mất.   
Ngày 28-4, đảo Trường Sa, đảo An Bang mất.     
Như vậy chỉ trong vòng nửa tháng 6 đảo ở Trường Sa đã mất về tay CSBV.

Theo HQ Thiếu tá Phạm Thành (k.13/SQHQ/NT) Hạm trưởng Hộ tống hạm (PCE) Vạn Kiếp HQ 14: “Lúc 9 giờ 30 tối ngày 21, HQ 14 khởi hành đi Trường Sa theo chỉ thị của BTL/HQ, thừa lệnh Bộ Tổng Tham Mưu. Cùng đi, có HQ 17 làm OTC.
Vì HQ 17 khởi hành trước và chạy nhanh hơn nên sẽ đến Trường Sa trước. **      

Chúng tôi được tiêu lệnh từ Bộ TTM: “Không được khai hỏa trước khi đối đầu với đich tại Trường Sa”.  Nhiệm vụ của HQ 14 và HQ 17 là bảo vệ sinh mạng của lực lượng Địa Phương Quân đồn trú trên quần đảo này.

HQ 14 đến quần đảo Trường sa lúc 4 giờ chiều ngày 23 tháng 4. Quần đảo Trường Sa  cách Vũng Tàu 305 hải lý về phía Đông. Các đảo này là những cồn cát rất thấp, bao quanh bởi nhiều đá ngầm và san hô. Việc vận chuyển quanh quần đảo này tương  đòi khó khăn, nhất là ban đêm tối, dù chiến hạm có radar. Cần nhất là máy định vị trí LORAN, nhưng máy này đặt trên HQ 14 đã hư từ lâu, không đươc sửa chữa.






HQ 17 và HQ 14 chia nhau đi tuần tiễu trên quần đảo này. HQ 17 quan sát thấy một ngọn cờ đỏ trên đảo? (LTG: có thể là đảo Sơn Ca) và ra lịnh HQ 14 bắn triệt hạ. Cứ mỗi lần đạn 76 ly nổ, cả ngàn con hải âu trắng lại bay lên ngập trời, rồi đáp xuống ngay! Ngày đầu tình hình tương đối yên lặng. Đến quá nửa đêm ngày 25, có hai tàu lạ xuất hiện ở đảo Nam Yết, một ở hướng đông và một ở hướng tây. HQ 17 và HQ 14 gọi nhiệm sở tác chiến, rượt theo hai tàu này. Chúng bỏ chạy mất dạng. Đến 7 giờ sáng, 2 echo xuất hiện trên radar, cách HQ 17 gần 4 ngàn yards, nhưng chúng đi xa dần. HQ 17 xin chỉ thị BTL/HQ Saigon và được đáp: “Phải báo cáo trước khi hành động”.  Ngày 28, HQ 14, HQ 17, và Địa Phương Quân được lệnh rút khỏi Trường Sa, về Vũng Tàu. Tôi khởi hành trước. HQ 17 ở lại để tiếp nhận Địa Phương quân cho xong trong ngày và sau đó trực chỉ Vũng Tàu.` [16)] 
Bản tin ‘Tình báo Quốc gia’ ngày 25/04/1975 cho biết là Tổng thống Phi Marcos đang dùng các báo cáo gần đây cáo buộc Bắc Việt có hoạt động thù nghịch trong khu vực quần đảo Trường Sa để tìm sự tái xác nhận về cam kết bảo đảm an ninh cho Phi. Manila tuyên bố chủ quyền trên một số đảo và đóng quân trên một vài nơi.   
Ngày 21/04, một viên chức Bộ Quốc phòng Phi nêu lên ‘vấn đề Trường Sa’ trong bối cảnh của hiệp ước Phòng thủ Hổ tương trong đó cam kết HK sẽ hành động để đáp ứng trước một cuộc tấn công vào “quân đội, tàu thuyền công cộng hay phi cơ Phi trong Thái Bình Dương phù hợp với các quy trình lập hiến của HK.
Ngày 22/04, Bộ Ngoại giao Phi gởi văn thư đến Tòa Đại sứ HK ở Manila báo cho HK biết “như là một đồng minh trong khối SEATO” là lực lượng Bắc Việt đã tấn công Nam Việt Nam trên đảo do họ trấn đóng ở Trường Sa trong ngày 14/04.   
Vẫn chưa được thông suốt về những gì thực sự đã xảy ra ở Trường Sa trong hai ngày 13 và 14 tháng 4. Phi Luật Tân quả quyết tàu vũ trang Bắc Việt tấn công trại lính Nam Việt Nam trên đảo dựa một phần vào lời khai của một người lính VNCH đã chạy sang đảo do Phi chiếm đóng. Tình hình có thể được sáng tỏ sau khi người lính này được đưa về Manila để thẩm vấn và nếu các yếu tố khác gồm luôn các báo cáo từ trại lính Phi gần đó được xác nhận.

Các giới chức Phi tin chắc là cuộc tấn công đã xảy ra và lo sợ là Hà Nội có thể các dự tính tương tự trên tất cả các đảo ở Trường Sa. Có một số quốc gia tuyên bố chủ quyền trên quần đảo này trong đó có Trung Hoa. Đài Loan và Phi có quân đội trú đóng ở đó.
Vấn đề Trường Sa xảy ra vào lúc các giới chức Phi đã công khai đặt câu hỏi về sự sẵn sàng tôn trọng hiệp ước an ninh của Hoa Kỳ đối với Phi. Marcos không hài lòng vì các tuyên bố công khai gần đây ở Hoa Thịnh Đốn với mục đích trấn an các nước đồng minh của Hoa Kỳ không viện dẫn cụ thể đến Manila.    
Marcos muốn là Hoa Kỳ không chỉ tái xác nhận sẵn sàng đứng về phía Manila mà cũng cần minh bạch hóa phạm vi của hiệp ước hiện hữu.   

Ngày 29-4,Thứ Trưởng Quốc Phòng Phi Crisol thông báo TĐS/HK ở Manila là quân đội Phi đã rút khỏi các đảo nhỏ trong khu vực North Danger để tăng cường cho đảo Song Tử Đông. Ông cho là quyết định này chỉ có mục đích phòng thủ trong trường hợp bị tấn công chứ không có ý định gây hấn.[10]

Ngày 7-5, thông tấn xã Giải Phóng  thuộc tân chánh phủ  CSVN lần đầu tiên loan báo tin là tất cả các đảo ở Trường Sa do VNCH chiếm giữ nay đã thuộc về CSVN.        
Đây là tin quan trọng trong ngày ở Manila, Hồng Kông và các hảng thông tấn UPI và AP

Ngoại Trưởng CSVN Nguyễn Duy Trinh đến Mạc Tư Khoa ngày 7-5, trong cùng ngày báo Pravda của đảng Cộng Sản Nga đăng bản tin do phái viên từ Hà Nội gởi về trong trang nhất với hàng chữ lớn “cờ của MTGP bay trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa” trong khi nội dung bản tin là chi tiết các đảo thuộc Trường Sa. Đây không hiểu là một sự nhầm lẫn vô tình hay có chủ ý đặt ra câu hỏi về sự chiếm đoạt Hoàng Sa của Trung Cộng.

Trong khi đó, ngày 6-5 phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Đài Loan tuyên bố là Đài Loan vẫn còn chiếm giữ đảo Ba Bình và tình hình đang êm dịu. [11]

Ngày 27-5, Tướng Espino, Tham Mưu Trưởng quân lực Phi thông báo Đại Sứ Sullivan là ông đã quyết định triệt thoán quân lính Phi ra khỏi hai đảo Song Tử Đông và  đảo Bến Lạc (đảo Dừa) là hai đảo ở gần đảo Song Tử Tây sau chuyến thanh tra các đơn vị phòng thủ Phi ở Trường Sa. Lực lượng Phi đã hoàn tất lịnh triệt thoái trong đêm trên hai đảo này, tuy nhiên họ còn duy trì cờ trên đảo để làm dấu chủ quyền. Tất cả lực lượng quân sự bây giờ tập trung vào việc phòng thủ đảo Thị Tứ chỉ cách đảo Song Tử Tây của Việt Nam khoảng 40 km. [12]

Trước hành động này của chánh phủ Phi, Đại Sứ Sullivan cho là với khoảng cách quá gần, khoảng 3 km và với tình trạng không có hoạt động nào trên đảo Song Tử Đông, lính CSVN trên đảo Song Tử Tây sẽ sớm biết được và ông nghĩ là trong thời gian ngắn CSVN sẽ chiếm đảo Song Tử Đông cùng lúc họ sẽ bày tỏ tình hữu nghị nồng ấm với quốc gia láng giềng Phi Luật Tân.         [12]    

(Top Secret_CIA ngày 25/04/1975)

Phn ng v phía TC        
Ngày 2-10-1975, BNG/HK trích dẫn nguồn tin của phóng viên Henry S. Bradsher đăng trên nhật báo Washington Star, theo đó có thể có sự căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc kinh trong chuyến thăm viếng Bắc Kinh của Đệ Nhất Bí Thư Đảng Lao Động CSVN Lê Duẫn. Ngoài mặt họ biểu lộ tình hữu nghị, nhưng đàng sau là mối bất hoà qua sự việc hai phiá không đưa ra bản tuyên bố chung sau buổi họp giữa Lê Duẫn và phiá TC. Sau đó Lê Duẫn không trở lại dự tiệc khoản đãi, khác với lần thăm viếng năm 1973. Lý do vì vấn đề chiếm đóng các hải đảo trong Biển Đông. ***[13]

Có lẽ vì thế, nên sau một thời gian dài im tiếng, ngày 25-11-1975, nhật báo Nhân Dân và đài phát thanh Bắc Kinh lập lại bài bình luận dài ở trang nhất của báo Guangming, cảnh cáo Việt Nam đã chiếm quần đảo Trường Sa là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Trung Hoa, lập luận là Trung quốc không bao giờ xâm lăng và chiếm đóng lãnh thổ của các dân tộc khác, tuy nhiên chúng tôi không cho phép bất cứ ai, dưới bất cứ lý do nào xâm lăng và chiếm cứ lãnh thổ chúng tôi. [14]

Thái độ ca Hoa K
Ngày 25-4-1975, Đại Sứ Sullivan trình bày lên BNG/HK “Tất cả những lần thăm dò ý kiến TĐS/HK  từ các giới chức thẫm quyền Phi đã nêu rõ sự quan tâm tột bực của chánh phủ Phi về hành động và  tiềm năng đe doạ cuả CSBV đối với  lực lượng trú đóng và chủ quyền của Phi trong quần đảo Trường Sa. Chánh phủ Phi cũng nhấn mạnh đìều thực tế là HK còn phải quyết định chánh sách của HK như  thế nào trước vấn đề hiện nay dựa theo điều V của hiệp ước phòng thủ hổ tương.**** [15]

Ngày 5-5-1975, BNG/HK trong văn thư gởi cho Tư Lịnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương xác định “Lập trường của Hoa Kỳ đối với quần đảo Trường Sa vẫn được duy trì như trong văn thư đã chuyển đến các nơi nhận trong mùa hè 1974. Đối tượng chính sách của HK là không can dự và lập trường công khai của HK khi được hỏi đến là HK “không đứng về bên nào trong những tranh chấp về chủ quyền trên các quần đảo.” và sẽ lên án việc sử dụng vũ lực.

Như Tư lịnh đã gợi ý với Tổng Thống Marcos, việc chiếm đóng hai đảo Song Tử Tây và Nam Yết của CSBV có lẽ đã được dự định một phần nào là để chận trước hành động của các nước tranh chấp khác, trong đó có Trung Cộng. BNG không tin là hành động của CSBV báo trước là họ sẽ sớm mở cuộc tấn công vào các tiền đồn của Phi hoặc Đài Loan.
Về phần TC vì quyền lợi của mình trước các mối quan hệ tốt đẹp với CSVN và với các nước còn lại trong khu vực Đông Nam Á, việc TC tấn công Phi không xảy ra vào thời điểm bây giờ. Ngoài ra chánh sách của TC đối với  quần đảo Trường Sa còn gặp phức tạp qua việc Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình”. [16]         
                                                      *******************
Chú thích  

* HQ 16 đã có mặt tại Côn Sơn trong ngày 1-5-1975 cùng với các chiến hạm thuộc HQ/VNCH di tản.         
** HQ Trung tá Trương Hữu Quýnh (k.11/SQHQ/NT) là Sĩ quan Chỉ huy Chiến thuật (OTC-Officer Tactical Command)     
*** Nhật báo Washington Star phát hành ở Hoa Thịnh Đốn đã đóng cửa trong tháng 8-1981
**** Hiệp ước phòng thủ hổ tương (Mutual Defense Treaty) đã được ký kết giữa Hoa Kỳ và Phi Luật Tân tại Hoa Thịnh Đốn vào ngày 30-8-1951

Tham khảo        
[1]  Thềm Sơn Hà “HQ/VNCH mở cuộc hành quân THĐ 48 chiếm cứ 5 đảo ở Trường Sa  vào tháng 2-1974”.
www.hqvnch.net      
[2]  Điện văn số 030753 ngày 16-4-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK.
[3]  Tổng hợp từ các bài viết trong nước.    
[4]  Điện văn số 075644 ngày 18-4-1975 của TĐS/HK tại Sài Gòn gời BNG/HK
[5]  Đinh Phan Cư “Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa”, Luận văn tốt nghiệp Học  Viện Quốc Gia Hành Chánh-1972”  
[6] HQHK phỏng vấn HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn, Tư lệnh Hạm đội tháng 7/1975    .
[7]  Điện văn số 090615 ngày 19-4-1975 của TĐS/HK tại Sài Gòn gởi BNG/HK
[8]  Điện văn số 024019 ngày 24-4-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK 
[9]  Điện văn số 042678 ngày 25-4-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK 
[10]  Điện văn số 105827 ngày 30-4-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK
[11] Điện văn số 057395 ngày 7-5-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK  
[12] Điện văn số 085812 ngày 27-5-1975 của TĐS/HK tại Manila gởi BNG/HK
[13] Điện văn số 105657 ngày 02-10-1975 của BNG/HK       
[14] Điện văn số 029930 ngày 25-11-1975 của  BNG/HK      
[15] Điện văn số 060667 ngày 25-4-1975 của  BNG/HK        
[16] Điện văn số 062068 ngày 5-5-1975 của  BNG/HK
[17] Phạm Thành “HQ 14 công tác quần đảo Trường Sa” Posted by bienxua on April 12, 2017