Tuesday, June 25, 2024

 

                              GERALD EMIL KOSH VÀ HI CHIN HOÀNG SA
  (trích trong "Sự Thật Hải Chiến Hoàng Sa 19/01/1974" tái bản năm 2022)

                                                                 
Thềm Sơn Hà  

            
       


 
Sau trận hải chiến Hoàng Sa (HS), báo chí Hoa Kỳ (HK) đặt rất nhiều câu hỏi với Bộ Quốc phòng (BQP) và Bộ Ngoại giao (BNG) HK về trường hợp của nhân vật người Mỹ, phục vụ cho cơ  quan DAO tại tòa Tổng Lãnh sự HK ở Đà Nẵng, tên ông ta là Gerald Emil Kosh.

Thời gian gần đây, tại hải ngoại, một vài dư luận cho là Mỹ đã dàn dựng chuyện Kosh để bán đứng HS cho Trung Cộng.

Viết về trận hải chiến HS như lọt vào trận hỏa mù, nếu chỉ dựa vào ký ức chủ quan của một vài nhân chứng để đi đến kết luận thì thật là thiếu sót.

Bài viết “Kế hoạch cưỡng chiếm Hoàng Sa của Trung Cộng” trên www.hqvnch.net vào tháng 9 năm 2011, trong phần “Nhiệm vụ của Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16” tác giả đã chứng minh là nhiệm vụ của HQ 16 chỉ đơn giản là chở toán Công binh ra HS để nghiên cứu về việc khả thi để xây phi đạo trên đảo, đồng thời Kosh cũng có mặt trên chuyến tàu này.

Và thật sự, nếu không có tài liệu rất quan trọng về cuộc phỏng vấn Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ-Thoại do Trung tâm Hải sử HK thực hiện trong tháng 9-1975 tại Hoa Kỳ [1], thì rất khó thuyết phục dư luận muốn thổi phồng chuyến đi của Kosh để biện luận về lý do mất HS theo chủ hướng của mình.

Trong bài viết này, tác giả hy vọng sẽ trình bày một cách đầy đủ sự thật về G. Kosh.         
           
TIU S  [2]           
- Sanh ngày: 25 tháng 10-1946 tại Lafayette Hill, Philadelphia.

- Nhập ngũ: 31 tháng 8-1965 - Xuất ngũ: 13 tháng 9-1966.

- Tái ngũ:    14 tháng 9-1966  - Xuất ngũ: 31 tháng 8-1969.

Trong thời gian tại ngũ, ông đã học qua các khóa huấn luyện về Lực lượng Đặc biệt, Nhảy dù, Biệt động quân và Tình báo. Nhiều kinh nghiệm tác chiến khi chỉ huy toán thám sát.                                                                               Ông đủ khả năng làm phóng viên quân đội.

Mang cấp bậc Đại úy trong Lực lượng Đặc biệt, phục vụ hai năm ở Việt Nam (2 lần qua Việt Nam). Theo báo New York Times 24 tháng 1-1974, Kosh được ân thưởng huy chương Anh dũng Bội tinh với ngôi sao đồng (Bronze Star) và Chiến thương Bội tinh (Purple Heart).

Giải ngũ với cấp bậc Đại úy, ông làm việc cho cơ quan DAO (Defense Attaché Office) tại tòa Tổng Lãnh sự HK ở Đà Nẵng với chức vụ Viên chức Liên lạc Vùng Chiến thuật (RLO:Regional Liaison Officer) từ ngày 10 tháng 12-1973 (có tất cả 12 RLO trong 4 vùng chiến thuật).    
- chấm dứt nhiệm vụ ngày 01 tháng 8-1975.
- 17 tháng 3-1977, được phỏng vấn việc làm với Bộ Ngoại giao tại Washington, trong thời gian này người phối ngẫu của Kosh là Jo Anne đang là thơ ký tại TĐS/HK Tel Aviv, Do Thái. (Không tìm được tài liệu Kosh đã được nhận vào làm việc trong BNG/HK).

- Kosh cư ngụ 17 năm ở Las Vegas và làm nghề thợ dây điện.                    
- Kosh mất ngày 29 tháng 10-2002, tại Las Vegas để lại vợ là Susan Kosh, 1 người con gái và 1 người con trai (báo Las Vegas Review Journal, Tuesday ngày 29 tháng 10-2002.)

Theo tài liệu Bộ Cựu Chiến binh HK, Kosh mất ngày 27 tháng 10-2002.    
           


KOSH và HOÀNG SA
       
- chiều 14 tháng 1, Kosh và toán Công binh do Thiếu tá Hồng hướng dẫn xuống HQ 16.

- 15 tháng 1, khoảng 10 gìờ sáng lên đảo Hoàng Sa.

- 16 tháng 1, khoảng 1 giờ trưa.trở về HQ 16.

- 18 tháng 1, khoảng 5 giờ 25’ từ HQ 16 chuyển qua HQ 5, khoảng 9 giờ đêm, sau khi được Đại tá Ngạc hỏi ý, Kosh muốn trở lại đảo và Đại tá Ngạc ra lịnh đưa Kosh và toán Công binh trở lên đảo Hoàng Sa.

- 20 tháng 1, bị TC bắt làm tù binh

- 23 tháng 1 Arthur Hummel, Jr. Phó Phụ tá NT, đề nghị  Kissinger nên cấp tốc gặp Han Hsu xử lý thường vụ Trưởng phòng liên lạc TC ở Washington về trường hợp của Kosh.

Kissinger chấp thuận và ngay buổi chiều gặp Han Hsu, viên chức này giả vờ ngạc nhiên khi biết Kosh có mặt trong số tù binh.      
Kissinger yêu cầu xác nhận, ông ta trả lời là chưa biết được thực hư như thế nào.

Và khi Kissinger yêu cầu Han Hsu có thể cố gắng xác định điều này.

Han Hsu đáp lại là chúng tôi sẽ xem lại sự việc như thế nào [2].

Trong cùng ngày, báo The New York Times tiết lộ TĐS/HK ở Sài Gòn xác nhận người Mỹ mất tích ngoài Hoàng Sa là Gerald Emil Kosh 27 tuổi, nhân viên dân sự của TĐS/HK/Phòng Tùy viên Quốc phòng được chỉ định là viên chức liên lạc với Hải quân VNCH.
- 24 tháng 1, HK hứa là sẽ dồn mọi nỗ lực để tìm Kosh cùng lúc thông báo cho TĐS/HK/SG là Ngoại trưởng Kissinger đã tiếp xúc với đại diện TC và đã thúc giục họ nhanh chóng thả tất cả tù binh.    BNG/HK cho phép TĐS thông báo tin này đến TT Thiệu nhưng yêu cầu ông tuyệt đối giữ kín. (điện thư số 015391 ngày 24-01-1974)

- 25 tháng 1, lần đầu tiên BNG/HK họp báo xác nhận là đã tiếp xúc với TC và được biết chắc chắn là      Kosh đang ở trong tay TC.

- 27 tháng 1, TC tuyên bố là họ sẽ thả từng đợt 48 người Việt và một người Mỹ đã bị bắt trong trận chiến xảy ra gần đây ở quần đảo Hoàng Sa.     
Đợt đầu tiên được thả gồm có Gerald Kosh mà TC cho là bị bịnh viêm gan và 5 người Việt bị thương.

Họ sẽ được bàn giao cho các giới chức Hồng thập tự tại biên giới Hồng Kông vào ngày 31 tháng 1.
TC không cho biết chừng nào sẽ thả các tù binh còn lại [3].

- 29 tháng 1, Bộ Ngoại giao TC triệu tập Anderson Trưởng phòng liên lạc HK ở Bắc Kinh đến trụ sở      BNG để thông báo là Gerald Kosh sẽ được thả gần biên giới TC và Kowloon (Shamchun) trong ngày Thứ Năm tuần này. TC nói là Kosh bị bịnh viêm gan cấp tính ngay khi bị bắt và đã được giới y khoa TC chữa trị. Hội Hồng thập tự TC đã thông báo cho hội Hồng thập tự Mỹ và yêu cầu họ tiếp nhận Kosh ở biên giới. Viên chức tại BNG/TC Cheng Chi Hung đã nhấn mạnh với Anderson là “quần đảo Hoàng Sa luôn luôn được công nhận là lãnh thổ của Trung Quốc, và sự hiện diện của Kosh trên đảo đã vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Bà Cheng hy vọng phía HK sẽ “lưu ý đến sự kiện này để tránh tái diễn trong tương lai.” [4]             
Trong cùng ngày, chánh quyền Hồng Kông cho biết là họ mong muốn tù binh Mỹ và Việt Nam rời Hồng Kông càng sớm càng tốt và tránh công khai. Dự trù trực thăng của Anh có Bác sĩ tháp tùng chở Kosh và 5 người Việt Nam từ biên giới Lôi Vũ (Lowu) đến phi trường Kaitak.      
Sau đó, ngay lập tức sẽ có máy bay do HK và Việt Nam cung cấp chở những người này đến nơi cuối cùng. Trong trường hợp thời tiết khắc nghiệt sẽ dùng xe cứu thương thay thế trực thăng.         
- 31 tháng 1, TC thả Kosh và 5 tù binh VN tại Hồng Kông. Kosh được phi cơ C-9 loại tải thương đưa    thẳng về căn cứ Không quân Clark (Phi Luật Tân) cùng ngày và sau đó đưa ngay vào bịnh viện để khám tổng quát và chửa trị bịnh viêm gan.

Theo nguồn tin từ AP thì khi xuống phi trường Clark, Kosh không cạo râu, nói với các viên chức là anh ta yếu và mệt. Nhưng anh tự đi bộ từ phi cơ đến xe bus cứu thương chở anh vô bịnh viện trong căn cứ.

Các phóng viên không được tiếp xúc với Kosh từ khi được thả ra ở Hồng Kông cho đến khi về căn cứ Clark. Bác sĩ thuộc không quân HK tháp tùng Kosh từ Hồng Kông; suốt chuyến bay Kosh ở trong tình trạng tinh thần sảng khoái và nói chuyện với phi hành đoàn cùng các nhân viên y tế trên chuyến bay C-9 Nightingale.

- 31 tháng 1, Đại sứ Martin sau khi được tin Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng (BQP) và Cơ quan Thông tin HK (USIA) không muốn Kosh trở lại làm việc với cơ quan DAO tại VN, ông đã góp ý là nếu tình trạng sức khỏe cho phép, nên cho Kosh trở lại Saigon theo ý muốn của anh ấy. 
Ông còn cho là “S hin din ca Kosh Hoàng Sa hoàn toàn là mt tai nn ca không gian và thi gian, và chúng ta không có bt c điu gì đ xin li.” [5]   
- 6 tháng 2, Phát ngôn viên Hải quân/HK cho biết Kosh đã trở về Mỹ hôm Chủ nhật 3 tháng 2, bị bịnh viêm gan nhẹ nhưng hoàn toàn bị cô lập để quan sát tại căn cứ hải quân ở Philadalphia lâu hơn là vài ngày.

- 13 tháng 2, Kosh được chuyển về quân y viện ở Philadelphia, bác sĩ hy vọng Kosh sẽ được xuất viện    trong vòng 2 tuần. 

Trong cùng ngày, NT Kissinger đồng ý với ĐS Martin, đề nghị BQP/HK cho Kosh trở lại VN như ý        muốn.
             
KOSH B BT LÀM TÙ BINH

Ngày 20 tháng 1, TC đổ bộ chiếm Hoàng Sa, Kosh và tất cả những người trên đảo bị bắt làm tù binh. Sau đây là đoạn do anh kể lại:

“Rõ ràng là TC đã biết anh có mặt trên đảo (có lẽ TC đã bắt được tần số liên lạc truyền tin giữa các chiến hạm do đó đã biết trước sự hiện diện của anh trên đảo). Sau khi bị bắt, TC nhốt anh trong một căn trại có lính gác qua đêm. Kosh đã b buc tay, b bt qùy gi vi hai tay đ lên đu.


Lúc 03:30H ngày 21 tháng 1, chỉ một mình Kosh được đưa xuống tàu tuần di chuyển đến nơi khác. Trong lúc xuống tàu, Kosh ghi nhận hình bóng 18 chiến hạm TC trong vùng. Kosh ở trên tàu di chuyển trong khu vực nhóm Nguyệt Thiềm 45 phút, từ đó Kosh được chuyển qua tàu khác lớn hơn. Sau 8 tiếng trên tàu, Kosh đến nơi mà anh nghĩ là đảo Hải Nam, tại đây anh bị tra hỏi và b tát tai.**


Trong thời gian xuống tàu di chuyển từ Hoàng Sa đến Phú Lâm và từ Phú Lâm đến Hải Nam lúc nào cũng có 3 hoc 4 lính canh bên cnh, b bt mt t trong phòng khi được dn qua mt tàu khác và b cm ra khi phòng, khi vin c mun đi tiu. Kosh được đưa cho cái xô trên sàn để tiu vô đó.

18:30H chiều ngày 21 tháng 1, từ phi trường không rõ tên, Kosh rời Hải Nam, phi cơ bay theo hướng bắc. Sau 1 giờ bay, phi cơ đáp xuống phi trường thứ nhì cũng không rõ tên khoảng 15 phút để lấy thêm người. Kosh hỏi người hành khách khác vị trí của phi trường và họ trả lời đây là phi trường Peking. *** Phi cơ rời phi trường bay về hướng tây, sau 90 phút, đáp xuống nơi đến sau cùng là Quảng Châu (Canton hay Guangzhou).

Sau khi được đưa đến trại tù binh ở Quảng Châu, Kosh đã bị tra hỏi trong 4 tiếng đồng hồ, trong thời gian này Kosh đã b nhng người thm vn tát tai hai ln.**

Kosh được khám sức khỏe tổng quát vào sáng 23 tháng 1 và theo lời Bác sĩ đề nghị Kosh được đưa vô nhà thương.  

Trong thời gian từ 22 đến 30 tháng 1-1974, hàng ngày trong nhà thương, Kosh bị thẩm vấn ngắn hạn 3 lần, lần thẩm vấn vào buổi trưa là phần tuyên truyền chánh trị.Trong mỗi lần thẩm vấn TC luôn biện minh hành động của mình ở Hoàng Sa bằng cách nói là họ chỉ lấy lại phần thuộc về họ. Kosh hỏi ngược lại về chuyện Đài Loan. TC trả lời là Đài Loan cũng thuộc về họ và họ sẽ lấy lại trong tương lai gần.TC sử dụng phương pháp tiêu chuẩn để tra hỏi, có lúc tử tế thân thiện, lúc hung hăng dọa nạt (good guy/bad guy). Kosh mô tả các cuộc thẩm vấn này như là hình thức tuyên truyền.
Về phần điều trị, hàng ngày Kosh được cho uống 500 cc chất đường (glucose) và được chích sinh tố B.

Kosh rời Quảng Châu lúc 06:30H ngày 31 tháng1 trên chuyến xe lửa hiện đại, mất khoàng gần 2 giờ mới đến biên giới. Trong chuyến đi, Kosh quan sát thấy rất nhiều hố cá nhân, hầm trú ẩn và lính gác có vũ trang tại các vị trí chiến lược.

Không khi nào Kosh được yêu cầu ký tên vào bất cứ bản văn nào, ngoại trừ giấy kê khai vật dụng cá nhân. Kosh viết tên anh vào giấy biên nhận này.

Các viên chức thẩm vấn HK nhận xét Kosh có thái độ rất hợp tác và trả lời lưu loát. Đôi khi có một vài nhầm lẫn nhỏ trong lời khai của Kosh; điều này có lẽ là do sự tập trung tinh thần, cố nhớ lại những gì Kosh đã thấy và nghe. Không có trang bị quân sự đáng kể, các sự kiện, tiết mục …. được ghi nhận khác hơn những gì đã báo cáo. Không có chứng cớ cho thấy Kosh bị ngược đãi một cách quá đáng trong thời gian bị giam giữ. Nhìn chung, Kosh được đối xử tốt so với tình trạng của anh [6].  

BÁO CHÍ M VIT V KOSH  
- Chicago Daily News, 22 tháng 1:   
 "Sĩ quan quân lực VNCH cho biết người Mỹ đã ở chung với toán bốn người thuộc đài khí tượng Sài Gòn trên đảo Cam Tuyền …"

- Reuters, ngày 22 tháng 1:   
"Ngày hôm nay, nguồn tin ngoại giao cho biết người Mỹ đã ra đó vào tuần trước với mục đích bề ngoài là quan sát trạm thời tiết trên đảo Hoàng Sa ..."  
 - UPI, ngày 23 tháng 1:        
"Ông ở trên chiến hạm VNCH  thi hành chuyến công tác kiểm tra thường xuyên ngoài Hoàng Sa."

 - New York Times, ngày 23 tháng 1:

 "Các viên chức ở đây không rõ về công việc của ông Kosh. Họ nói rằng họ không biết một cách chính xác ông và các viên chức liên lạc khác có nhiệm vụ quan sát điều gì  ..."
- Wall Street Journal, ngày 22 tháng 1:         
“Nhà khí tượng Hoa Kỳ ở đài khí tượng trên một đảo trong quần đảo Hoàng Sa đã được báo cáo mất tích.”
- Philadelphia Inquirer, 26 tháng 1:   
“G. Kosh, cựu Đại úy Lực lượng Đặc biệt ở Việt Nam đã được bổ nhiệm như là quan sát viên cho Hải quân VNCH ở Đà Nẵng.”

 

CHÁNH PH HOA K VÀ GERALD E. KOSH         
1
.- Tòa Đại s Hoa K Sài Gòn có biết trước chuyến đi ca Kosh?

Câu trả lời chính xác là tòa Tổng Lãnh sự /HK ở Đà Nẵng biết, nhưng TĐS/HK ở Sài Gòn thì không.

Bài phỏng vấn về Kosh và ĐĐ Thoại trả lời thắc mắc của Đại tá Kiểm đã xác nhận:  

“… một người Mỹ làm việc cho chánh phủ Mỹ xin quá giang theo tàu trong một công tác liên lạc cũng như sự hiện diện của sĩ quan công binh thuộc QL/VNCH đi nghiên cứu địa thế trên đảo HS không có gì quan trọng để bắt buộc phải báo cáo về Saigon.”

Tình trạng của Kosh và các quân nhân VNCH trên ba đảo Hoàng Sa, Cam Tuyền và Vĩnh Lạc có lẽ đã được Đại tá Ngạc báo cáo khi HQ 5 trở về Đà Nẵng, sau đó V1DH đã thông báo cho Tổng Lãnh sự HK tại Đà Nẵng và nơi đây tường trình về TĐS/HK/Sài Gòn.

2.- HK chính thc nói v Kosh t khi nào?

- 00:43H ngày 20/01/1974: BNG/HK gởi điện văn đến tòa Bạch Ốc báo cáo đụng độ đã xảy ra ở Hoàng Sa “tình hình phức tạp do báo cáo sự hiện diện trên đảo Hoàng Sa (chánh phủ VN chiếm đóng) của nhân viên dân sự Hoa Kỳ thuộc cơ quan DAO Hoa Kỳ văn phòng ở Đà Nẵng. BNG không biết tại sao anh ở đó …BNG đang cố gắng lấy thêm tin tức gồm cả tin về tình trạng của công dân Hoa Kỳ.”

Điện văn này sau đó được gởi đến TĐS/HK/Sài Gòn lúc 02:22H ngày 20/01.

- 02:24H ngày 20/01/1974: chỉ 2 phút sau BNG/HK gởi tiếp đến TĐS/HK điện văn: “ BNG đoán là trong thời điểm này, TĐS đang dùng tất cả các biện pháp khả thi để đảm bảo sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam trong việc đem viên chức Mỹ ra khỏi quần đảo Hoàng Sa và BNG cần bản báo cáo sớm nhất về trường hợp hiện diện của người này ở nơi đó vào khoảnh khắc không thuận lợi nhất này.” 
              Lúc này, tình hình ngoài Hoàng Sa vẫn yên tĩnh, do vậy HK vẫn còn hy vọng là HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh tăng phái có thể mang Kosh về lại Đà Nẵng.

- 11:53H ngày 20/01/1974: sau khi đã được Tòa Lãnh sự /HK tại Đà Nẵng báo cáo, Đại sứ Martin gởi ngay điện văn về BNG/HK: “ sự hiện diện của Kosh chắc chắn không phải ngẫu nhiên, nhưng là sự chấp nhận lời mời từ chánh phủ Việt Nam để quan sát trên chuyến tuần tiễu thường lệ là bằng chứng thuyết phục chứng tỏ không phải Việt Nam Cộng hòa hay chánh phủ Hoa Kỳ đã dự đoán khả năng hành động của Trung Cộng.”

- 12:55H ngày 20/01/1974: khoàng một giờ sau đó, BNG/HK đã chuyển điện thư nêu trên đến tòa Bạch Ốc và đồng thời thông báo khẩn đến tòa Đại sứ HK tại Beirut (trong thời gian này Kissinger đang ở Trung Đông).

- 12:05H ngày 20/01/1974: Đại sứ Martin báo cáo về BNG/HK là ông mới vừa được tin là phi cơ TC đang dội bom và tàu TC đang pháo kích đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền và Hoàng Sa.

- 14:05H ngày 20/01/1974: Đại sứ Martin gởi điện thư cho Tướng Brent Scowcroft thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia HK (NSC- National Security Council):

“Tin sau cùng cho biết lính TC đổ bộ lên đảo Hoàng Sa. Thật là không may, Chỉ huy trưởng lực lượng hải quân VN vì cố gắng tránh sự can dự hoặc nguy hiểm cho nhân viên dân sự HK Gerald Kosh - người đã tháp tùng toán công binh để nghiên cứu về việc có thể xây một phi đạo ở Hoàng Sa - đã di chuyển Kosh khỏi tàu, đưa lên đảo Hoàng Sa, ở đó Kosh được xem như là tránh khỏi hiểm nguy.

Ngay bây giờ chiến hạm VN đã rút lui, có lẽ hầu như chắc chắn là những người bạn ta còn ở lại, gồm có Kosh sẽ bị TC bắt làm tù binh. Ông có thể cứu xét việc thông báo cho TC về sự hiện diện của Kosh, nhấn mạnh một cách rõ ràng là Kosh đã không có mặt ở đó nếu chánh phủ HK có bất cứ khái niệm nào là có khả năng chiến tranh, và đề nghị là sẽ có lợi cho cả TC và chánh phủ HK nếu có thể tìm ra cách trả anh ta về một cách kín đáo.

Sẽ không bị tiết lộ từ TĐS, nhưng BNG đã đề cập đến sự hiện diện của anh ta trong các điện thư gần đây, chúng ta phải dự đoán có thể bị lộ ở nơi khác.”

- 22:30H ngày 20/01/1974: Ngoại trưởng Vương Văn Bắc nhờ Đại sứ Martin chuyển lời yêu cầu chánh phủ HK liên lạc Bắc kinh để yêu cầu TC đồng ý với đề nghị hưu chiến trong 48 giờ của VNCH. Thời gian hưu chiến này dùng để di tản những người chết và bị thương ở Hoàng Sa.

Đại sứ Martin đề nghị BNG/HK đồng ý vì luôn tiện đem Kosh trở về một cách lặng lẽ.

Trong điện văn gởi về NSC, Đại sứ Martin viết: “dĩ nhiên, chúng ta không biết là những người đã bị bắt còn ở trên đảo Hoàng Sa hay đã được mang về đảo Hải Nam hay trong lục địa.”       
 (điện văn số 0587 ngày 21 tháng 01-1974).

 

                  Phát ngôn viên TĐS/HK ở Sài Gòn cho biết Kosh không phải Cố vấn nhưng là  "liên lạc viên" để quan sát cách sử dụng dụng cụ, thi hành nhiệm vụ và sự hữu hiệu của quân lực VNCH. Phát ngôn viên nói Kosh là cựu Đại úy Lực lượng Đặc biệt đi theo chiến hạm VN ra Hoàng Sa do lời mời của Chỉ huy trưởng hải quân địa phương. Chiến hạm đụng độ lực lượng hải quân TC và Kosh được đưa lên bờ cho an toàn. Sáng ngày hôm sau, phi cơ Mig và lính TC tấn công đảo và từ đó không nghe tin tức gì về Kosh  (điện văn số 088359 R242255Z JAN74 BNG gởi TĐS/HK).                                           

NHN XÉT 
Qua dẫn chứng phần trên và qua đoạn phỏng vấn Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ-Thoại nói về Kosh, vai trò của Kosh trong trận hải chiến Hoàng Sa đã được xác định.   
Nếu cho là Kosh được giao phó nhiệm vụ bí mật, vậy nhiệm vụ đó là gì?    
Và nếu đúng như thế thì Kosh đã thi hành xong nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo, tại sao Kosh bị chấm dứt nhiệm vụ trong tháng 8/1975? Tại sao Kosh không được nhận vào làm việc cho TĐS/HK ở Do Thái đến nỗi trong khoảng 17 năm sau cùng phải dời qua Las Vegas làm thợ dây điện?


V phía TC, nếu có tha thun ngm, dĩ nhiên TC phi là người chu ơn HK, nht là Kissinger.
đối vi Kosh, vic làm đầu tiên là TC phi chăm sóc, ưu đãi, sau đó h phi liên lc ngay vi HK cho biết tình trng Kosh và tiếp theo s cho biết ngày gi th Kosh.


Trái lại Kosh đã bị ngược đãi từ khi bị bắt, TC đối xử với Kosh còn tệ hơn tù binh Việt Nam.      
Trong ngày 23-01, khi gặp Kissinger ở Washington, quyền Trưởng phòng liên lạc TC vẫn chưa chịu xác nhận là Kosh đã bị bắt làm tù binh? Ông ta còn giả vờ ngạc nhiên tại sao lại có người mang quốc tịch Mỹ có mặt tại khu vực và tại thời điểm đặc biệt.

Vấn đề Kosh bị TC bắt ở Hoàng Sa là vấn đề mà chánh phủ HK không bao giờ muốn xảy ra, nhất là sau hiệp định Paris, Mỹ không còn giữ vai trò cố vấn trong quân lực VNCH.

Trong thời gian này, báo chí đang chỉa mũi dùi vào vụ Watergate, và nay thêm vụ Kosh ra HS trùng hợp với trận hải chiến và chánh phủ HK cho đến ngày 23 tháng 1 vẫn chưa xác định tình trạng của Kosh.
Dĩ nhiên báo chí và nhất là đảng Dân chủ sẽ lợi dụng để khai thác và đặt ra nhiều giả thuyết bất lợi cho chánh phủ Nixon là đã vi phạm hiệp định Paris. 
Chuyện HK quan tâm và lo lắng nhiều về Kosh là điều dĩ nhiên, vì một khi Kosh được thả báo chí sẽ       ngưng bàn vòng vo.         
Chính vì vậy, mặc dù rất bận rộn trong vấn đề Trung Đông, Kissinger đã đồng ý với đề nghị của thuộc cấp, tức thời gọi Đại sứ TC đến Bộ Ngoại giao.

Kissinger: “Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể có một cuộc họp ngắn gọn để bàn về hai vấn đề. Một là vấn đề quần đảo Hoàng Sa, và hai là chuyến đi Trung Đông của tôi. Để tôi nói về điều không vui trước. Tôi đánh cá là ông nghĩ bây giờ tôi sẽ nói về Trung Đông, nhưng tôi sẽ đánh lừa ông.

Chỉ có hai điểm tôi đưa ra liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.  Chính phủ Nam Việt đang đưa ra một số điều trần (kiến nghị) đến các tổ chức quốc tế, đến Tổ chức các quốc gia vùng Đông nam Á SEATO cũng như tại Liên hiệp quốc. Chúng tôi muốn cho ông biết chúng tôi không liên hệ đến các kiến nghị đó. Tuy nhiên, chúng tôi quan tâm đến các tù nhân, và chúng tôi ghi nhận chính phủ ông đã biểu lộ là các tù nhân sẽ được thả vào một thời điểm thích hợp. Chúng tôi muốn yêu cầu thời điểm thích hợp này sẽ xảy ra rất sớm, đặc biệt là khi có một người Mỹ trong nhóm đó. Và điều đó chắc chắn sẽ xoa dịu tình hình  như Hoa Kỳ quan tâm. Đó thực sự là tất cả tôi muốn nói về vấn đề đó.”

(Kissinger quay sang ông Arthur Hummel):  Art, ông có gì muốn nói thêm?

Hummel: Vì lý do chính trị trong nước, chúng tôi muốn nói rằng chúng tôi đã liên lạc về người Mỹ này.

Kissinger: Chúng tôi sẽ nói rằng nó chỉ để đáp ứng với các câu hỏi.          
(Winston Lord nhắc Kissinger là có một số câu hỏi về tình trạng chính xác của người Mỹ.)

Đại sứ Han: Tôi muốn nói một vài lời về vấn đề này. Trước hết, chúng tôi gọi là quần đảo Hsi Sha vì đó là lãnh thổ của chúng tôi. Chúng tôi nói rõ trong các bản tuyên ngôn của chúng tôi rằng chúng tôi là một nước xã hội chủ nghĩa; chúng tôi không bao giờ xâm chiếm lãnh thổ nước khác, nhưng chúng tôi không để nước khác xâm chiếm lãnh thổ của chúng tôi.

• Kissinger: Điều đó không đúng sự thật đối với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.

Đại sứ Han: Chúng tôi đã luôn nói là chúng tôi sẽ không tấn công nếu chúng tôi không bị tấn công, nhưng nếu chúng tôi bị tấn công bởi những nước khác, chúng tôi sẽ phản công. Vì vậy, những gì chúng tôi nói là rõ ràng.

Còn khi nào các tù nhân sẽ được thả, tuyên bố của chúng tôi đã nói là vào một thời điểm thích hợp họ sẽ được thả. Đó là tuyên bố của Bộ Ngoại giao.

Tuy nhiên, như là một nhận xét cá nhân, tôi chỉ muốn bày tỏ sự ngạc nhiên là sao lại có thể có một công dân Mỹ tại khu vực đặc biệt vào một thời điểm đặc biệt. Chúng tôi không biết các tình huống hiện thời - là ông đã có ở đó hay không hoặc liệu ông có bị bắt hay không.

• Kissinger: Ông không ở đó trên bất kỳ nền tảng lâu dài; ông ấy đã có mặt ở đó theo yêu cầu của người Việt Nam có liên quan tới một số nhiệm vụ kỹ thuật tạm thời, điều này chính xác bởi vì chúng tôi nghĩ rằng đó là một giai đoạn yên ổn. Ông định chỉ ở lại một ngày hay như vậy (lâu hơn), rất ngắn, sau đó ông thấy mình bị bắt. Không người Mỹ nào có mặt thường trực hoặc ngay cả tạm thời trên các quần đảo này. Đây là một sự việc đáng tiếc.”

Đại sứ Han: v vic ông có b bt làm tù binh hay không, chúng tôi không biết được.

Kissinger: Ông có thể cố gắng để khẳng định điều này cho chúng tôi?

Đại sứ Han: Chúng tôi sẽ xem tình huống như thế nào?

Kissinger: Chúng tôi cảm kích rất nhiều. HK không có lập trường trong việc ủng hộ các tuyên bố chủ quyền của VNCH đối với các đảo này. Tôi cũng muốn làm cho rõ điều này.

 

Qua đon đối đáp trên, có th hiu lý do vì sao TC vn còn mp m v tình trng ca Kosh. Vì thế Kosh li b đem ra thm vn ln th hai, ln này Kosh vn cng đầu tr li anh không phi là c vn và anh đã b điu tra viên tát tai 2 cái.   
Có lẽ thấy không thể khai thác được gì hơn và có thể tin là Kosh đã khai sự thật nên sau đó TC đã sắp xếp trả tự do cho Kosh.       
Điểm cần nhấn mạnh nơi đây là trong buổi tiếp xúc này Kissinger đã nhấn mạnh: “Tuy nhiên, chúng tôi quan tâm đến các tù nhân, và chúng tôi ghi nhận chính phủ ông đã biểu lộ là các tù nhân sẽ được thả vào một thời điểm thích hợp.”  

Ngày 31 tháng 1, Kosh và 5 người Vit Nam đã được TC th ti biên gii Hong Kong-Kowloon.


          
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
* Trong câu trả lời UBHS trang 351, ĐĐ Thoại cho là: “Ông Kosh đi theo tàu HQ để ra Hoàng Sa là do lời xin của ông Gerald Scott, Lãnh sự Mỹ thân với tôi lúc bấy giờ. Việc gởi ông Kosh đi với mục đích gì thì tôi không nhớ rõ.” [7]       
** Trần Kim Diệp trong bài: "Bên lề trận hải chiến Hoàng-Sa."_Bản tin Tình Đại dương khóa 17 SQHQ Nha Trang tháng 7-2004, qua lời kể của Thiếu tá Hồng thì Kosh đã bị thẩm vấn viên TC tát tai.         
***   Có lẽ không đúng là phi trường Peking, vì Peking ở hướng bắc Quảng Châu cách khoảng 1.800 km.

THAM KHO         
-
[1] Naval History and Heritage Command “Interview with Commodore Ho Van Ky Thoai” by Oscard P. Fitzgerald, 20 September 1975 (tài liệu này gồm 91 trang, khoảng 18 trang đề cập đến Hoàng Sa).
- [2] Dựa trên tài liệu tổng hợp từ Bộ Cựu Chiến binh/HK, Bộ Lục quân HK và BNG/HK Foreign           Relations.
- [3] Tài liệu CIA 016-74 tháng 1-1974.        
- [4] Điện văn số 1303 ngày 29/01/1974 từ USLO Peking gởi BNG/HK    
- [5] Điện văn số 010217 ngày 31/01/1974 từ  TĐS/HK/SG gởi BNG/HK 
- [6] Tài liệu từ ban thẩm vấn Kosh tại phi trường Clark gởi về Tư lệnh Lực lượng HK/Thái Bình Dương trong 2 ngày 31 tháng 1 và 1 tháng 2 năm 1974.       
- [7] UBHS “Hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974” 2010-USA

Monday, June 10, 2024

TÌNH TRẠNG CHIẾM ĐÓNG TRƯỜNG SA, viet nam, trung quốc, đài loan, phi luật tân, mã lai, nam dương, brunei

                              TÌNH TRNG CHIM ĐÓNG TRƯỜNG SA

                                                                     Thềm Sơn Hà

1.- VIỆT NAM
Thời Pháp thuộc
•••
1929 Pháp đưa tàu De Lanessan ra thám sát.
••• 1930 Pháp đưa tàu La Malicieuse chánh thức ra thám hiểm.
     - ngày 13 tháng 4, chiếm và dựng cờ trên đảo Trường Sa.
••• 1933, Chánh phủ Pháp thông báo ba chiến hạm Pháp 
Alerte, Astrolabe và De Lanessan chiếm hữu các đảo sau đây:
    - ngày 7 tháng 4: Đảo An Bang.
    - ngày 10 tháng 4: Đảo Ba Bình, Đảo Song Tử Tây và đảo Song Tử Đông.
    - ngày 11 tháng 4: Đảo Loại Tá.
    - ngày 12 tháng 4: Đảo Thị Tứ.

    Nghị định ngày 21 tháng 7-1933 xáp nhập các đảo này vào tỉnh Bà Rịa.
••• 1938 đài khí tượng được thiết lập trên Đảo Ba Bình
••• 30 tháng 3-1939, Nhật tuyên bố đặt Trường Sa dưới quyền quản trị của toàn quyền Đài Loan.

 Việt Nam Cộng Hòa

••• Tháng 8-1956, chánh phủ VNCH gởi Hộ tống hạm Tụy Động HQ 04 ra dựng cờ và bia chủ quyền trên hai đảo Song Tử Tây và Nam Yết. Đây là chiến hạm đầu tiên của HQ/VNCH được gởi ra Trường Sa.
••• Tháng 6-1961, Hộ tống hạm Vạn Kiếp HQ 03 và Vân Đồn HQ 06 thám sát các đảo Song Tử Tây, Thị Tứ, Loại Tá và An Bang.
••• Tháng 6-1962, Hộ tống hạm Tụy Động HQ 04 và Tây Kết HQ 05 thám sát Đảo Song Tử Tây và Song Tử Đông.
••• Tháng 5-1963, Hải vận hạm Hương Giang-HQ 404, Hộ tống hạm Chi Lăng-HQ 08 và Kỳ Hòa- HQ 09 đã trùng tu bia chủ quyền trên các đảo Trường Sa, An Bang, Thị Tứ, Loại Tá, Song Tử Đông và Song Tử Tây.
••• Tháng 5-1964, Hộ tống hạm Tây Kết-HQ 05 và Đống Đa II-HQ 07 thám sát các đảo Trường Sa, An Bang, Nam Yết và Loại Tá.



••• 10 tháng 7-1973, VNCH thực hiện cuộc khảo sát đảo Nam Yết trong quần đảo Trường Sa để chuẩn bị việc xây cất doanh trại và đưa Địa Phương Quân lên đồn trú trên đảo.

••• Tháng 8-1973, các chiến hạm VNCH chở theo toán Công Binh, toán Địa Phương Quân thuộc Tiẻu khu Bình Tuy cùng vật liệu xây cất do HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc chỉ huy đã đổ bộ chiếm đóng đảo Nam Yết.
 

                                                          

Lần đầu tiên trong lịch sử, chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa đã chánh thức thiết lập sự hiện diện thường trực của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa.
••• Ngày 30 tháng 1-1974 ( 10 ngày sau khi mất Hoàng Sa),  Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu  đã ra lịnh cho Hải quân VNCH mở cuộc hành quân Trần Hưng  Đạo 48 trực chỉ Trường Sa đổ quân chiếm đóng thêm 5 đảo
             -   đảo Trường Sa      (Spratly island) 
             -   đảo Sinh Tồn        (Sin Cowe island)
             -   đảo Song Tử Tây  (Southwest Cay) cao nhất khoảng 4m
             -   đảo Sơn Ca           (Sand Cay island)
             -   đảo An Bang (Amboyna Cay)
Tổng kết là kể từ tháng 2-1975, Việt nam đã chiếm đóng tất cả là 6 đảo trong quần đảo Trường Sa (kể luôn đảo Nam Yết)
  

                                                           

Cộng Sản Việt Nam
••• Ngày 14 tháng 4-1975 toán lính đầu tiển của CSBV đổ bộ chiếm đảo Song Tử Tây.
••• Ngày 25 tháng 4: chiếm đảo Sơn Ca
••• Ngày 27 tháng 4: chiếm đảo Nam Yết và Sinh Tồn
••• Ngày 28 tháng 4: chiếm đảo Trường Sa và An Bang
Tài liệu CIA trong tháng 9 năm 1985 cho thấy VN có 9 cứ điểm ở TS trong đó CIA chưa xác định được vị trí tên Anh ngữ của Đảo Sinh Tồn Đông.
Tháng 8/2011 tại Bảo tàng Hà Nội, Tư lệnh Hải quân trao tặng thành phố Hà Nội 33 tấm đá San Hô được lấy từ 33 đảo lớn nhỏ tiêu biểu của quần đảo Trường Sa (căn cứ theo báo Tiền Phong ngày 07/08/2011).
Như thế cho đến nay, Việt Nam đã chiếm đóng ít nhất là 33 đảo, đá, bãi cạn  ở Trường Sa.

Tổng cộng có 7 đảo gồm có: đảo Trường Sa, đảo An Bang, đảo Nam Yết, đảo Song Tử Tây, Đảo Sơn Ca, Đảo Sinh Tồn và Đảo Sinh Tồn Đông.
 
Quần đảo Trường Sa hiện có 9 hải đăng nằm ở các đảo Đá Lát, An Bang, Đá Tây, Tiên Nữ, Song Tử Tây, Trường Sa Lớn, Sinh Tồn, Sơn Ca và Nam Yết. Chín ngọn hải đăng này thuộc quyền quản lý của Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Nam.



2.-TRUNG QUỐC
Lấy danh nghĩa LHQ để dựng lên trạm khảo sát, tháng 3- 1987 TC bắt đầu xây cất căn cứ trên Đá Chũ Thập- Fiery Cross Reef để mở đầu cho kế hoạch lấn chiếm BĐ.
Tháng 3-1988 đụng độ giữa TC và HQ/CSVN tại đá Gạc Ma thu
ộc Cụm Sinh Tồn và sau đó TC đã chiếm đóng vị trí này.
Cuối tháng 4-1988, TC đã chiếm thêm một số các đá trong Cụm Sinh Tồn, tổng cộng đã có 6 bãi đá thuộc về TC.

         Trên Đá Chữ Thập, TC đã thiết lập hệ thống radar báo động kiểm soát khắp vùng TS, xây cầu tàu cho loại tàu có trọng tải 4000 tấn, sân bay cho trực thăng và trạm quan sát đại dương.
Năm 1995 TC bắt đầu bành trướng về hướng Tây quần đảo Palawan. Phi Luật Tân qua hành động chiếm và xây căn cứ trên đá Vành Khăn (Mischief Reef).
Điểm cần ghi nhận là vì hầu hết các đảo đã bị chiếm đóng, nên TC chỉ chiếm đóng 7 bãi đá sau đây:
1.      Đá Su Bi (Subi Reef)
2.      Đá Ga Ven (Gaven Reef)
3.      Đá Gạc Ma (Johnson South Reef)
4.      Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef)
5.      Đá Châu Viên (Cuarteron Reef)
6.      Đá Vành Khăn (Mischief Reef)
7.      Đá Tư Nghĩa (Hughes Reef)
Ngoài ra có thể TC Đá Ken Nan (McKennan Reef), Đá Én Đất (Eldad Reef) và Đá Ba Đầu (Whitsun Rf) sẽ là các mục tiêu kế tiếp của TC.
                                      Vị thế cuả Trung Quốc trong tranh chấp ở Trường Sa yếu về khía cạnh lịch sử. Trong hầu hết các cuộc thỏa hiệp về biên giới trên bộ, Trung Quốc cụ thể 
đã kiểm soát ít nhất một phần lãnh thổ bị tranh cãi.
Là một quốc gia có một đội quân hùng hậu, Trung Quốc cũng có thể hoạch định sức mạnh quân sự trong toàn bộ khu vực tranh chấp. Nhưng Trung Quốc trong lịch sử đã giữ một vị trí yếu trong các tranh chấp Biển Đông. Mặc dù Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố thừa nhận Trường Sa kể từ năm 1951, nhưng chẳng có sự hiện diện cụ thể nào của Trung Quốc cho đến năm 1988. 
Ngay cả thế, Trung Quốc chỉ có thể chiếm cứ các cứ điểm nhỏ nhất mà các nước khác không màng đến, trong đó có các mỏm đá và đá ngầm nằm dưới mặt nước khi thủy triều lên cao.
(Washington Post)

Trong 9 đá do Trung Quốc chiếm, chỉ có 3 vị trí Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Gạc Ma là đá, số còn lại là đá ngầm chỉ thấy được khi thủy triều thấp.


3.-PHI LUẬT TÂN
Morton Meads người Mỹ, sống ở Manila đã làm gia tăng sự quan tâm của người Phi đối với khu vực Dangerous Ground khi trong khoảng 1954-1956, Meads gởi thư cho Tổng Thống Eisenhower, Đại Sứ Mỹ ở Manila và vài người khác yêu cầu công nhận và ủng hộ cho “Kingdom of Humanity” như là một nuớc có chủ quyền “vị trí nằm ở khoảng trung tâm Biển Đông.”
Ở các thời điểm khác nhau, Meads tuyên bố là vương quốc của ông gồm luôn các đảo Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thị Tứ và Bến Lạc.
Lời yêu cầu của Morton Meads không được chánh phủ Hoa Kỳ chấp thuận.
- các ghi nhận về lời tuyên bố của Meads đăng trong tờ báo ‘Manila Chronicle’ đã khuyến khích luật sư người Phi Tomas Cloma là bạn và là người hợp tác kinh doanh với Phó Tổng Thống kiêm Ngoại Trưởng Phi Luật Tân (PLT) Carlos P. Garcia (đảm nhận chức vụ Tổng Thống từ tháng 3-1957) ngày 21 tháng 5-1956 chánh thức thông báo cho chánh phủ Phi và gởi cáo thị đến báo chí trong, ngoài nước về việc chiếm hữu hầu hết các đảo ở TS và khu vực “Dangerous Ground”, Tomas Cloma đặt tên cho nhóm đảo này là Freedomland (Kalayaan). Ngoài ra Cloma còn yêu cầu chánh phủ Phi đặt nhóm đảo này trong tình trạng bảo vệ     (protectorate status) nhưng chánh phủ Phi làm ngơ trước lời yêu cầu này. 

- năm 1967, Phi đã đưa người lên các đảo để giúp cho việc duy trì các trạm trợ giúp hải hành.
Tháng 7-1971, tuy không tuyên bố chủ quyền nhưng Phi đã bác bỏ việc người Trung Hoa tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa và cho là việc chiếm đóng Đảo Ba Bình là mối đe dọa cho an ninh của Phi.
Ngày 10 tháng 7-1971, Tổng Thống Phi Marcos đã yêu cầu Đài Loan rút quân ra khỏi Ba Bình.
Sau đó, không đầy một tuần, ngày 15 tháng 10, Phi đổ quân chiếm đảo Thị Tứ, đảo Vĩnh Viễn và đảo Bình Nguyên . M
ỗi đảo khoảng 20 quân.
Đến năm 1973, Phi chiếm thêm các đảo Loại Tá, Song Tử Đông và đảo Dừa.
Trong số này các đảo Song Tử Đông, Thị Tứ và Loại Tá đã được Hải Quân VNCH dựng bia chủ quyền trong tháng 5 năm 1963.
Hiện nay Phi đang chiếm đóng các đảo sau đây:
 1.     Đảo Song Tử Đông (Northeast Cay - Parola)
2.      Đảo Thị Tứ (Thitu Island - Pagasa) có phi trường dài khoảng 4,000 ft
3.      Đảo Loại Tá (Loaita Island - Kota)
4.      Đảo Bến Lạc hay Đảo Dừa (West York Island - Likas)
5.      Đảo Bình Nguyên (Flat Island - Patag)
6.      Đảo Vĩnh Viễn (Nanshan Island - Lawak)
7.      Đảo An Nhơn (Lankiam Cay – Panata) đảo nhỏ nhất trong Trường Sa
8.      Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal - Ayungin)
9.-    Đá Công Đo (Commodore Reef)
Theo lập luận của Malaysia thì Đá Công Đo không nằm trong đường căn bản của đạo luật RA 9522 năm 2009 của Phi,  tuy nhiên nằm trong vùng kinh tế đặc quyền EEZ của Phi. hiện tại Phi đang chiếm đóng Đá Công Đo.
Tháng 8-2017, Phi tố cáo đội tàu đánh cá của lực lượng dân quân hàng hải TC đã ngăn chận tàu thuộc Cục Thủy Sản Phi thi hành nhiệm vụ trong khu vực Đá Hoài Ân và phi cơ trực thăng từ tàu TC đã bay lên 2 lần trong ngày 15 tháng 8. Hành động này của TC được xem như là kế hoạch nham hiểm để chiếm đảo cát này của Phi.



4.- ĐÀI LOAN   (tuyên bố chủ quyền tương tự Trung Quốc)

Tháng 12-1946  Đài Loan với danh nghĩa đại diện Đồng Minh đã gởi một toán hải quân lên tiếp thu đảo Ba Bình từ tay Nhật Bản.
Tháng 5-1950, Đài Loan rút quân ra khỏi Đảo Ba Bình.
26 tháng 6-1956, hai khu trục hạm Đài Loan đã chở khoảng từ 50 đến 100 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) ra TS tái thiết lập trại lính trên đảo Ba Bình (Itu Aba).
Mặc dù Đài Loan xác nhận là đã đồn trú liên tục từ 1956 nhưng trong năm 1959 và năm 1963 các chuyến bay quan sát của toán phi công hải quân Anh trong vùng không ghi nhận có người sinh sống, chỉ có vài tòa nhà đã bị phá hủy phần nào và 2 giếng nước.
Kiến trúc nhân tạo duy nhất đã được quan sát là một cột mốc cao 5 m có lẽ là bia chủ quyền đã được Trung Hoa Quốc Gia dựng lên trong tháng 12-1946.
Tháng 7-1971, Đài Loan tăng cường quân số trên đảo Ba Bình lên đến khoảng 500 người, thiết trí các ổ súng, biến đảo trở thành pháo đài.
Tổng Thống Phi Marcos đã lên tiếng phản đối hành động này của Đài Loan.
Từ các dữ kiện trên, có thể kết luận là từ cuối năm 1946 đến giữa năm 1971 đã không có dân định cư sống thường trực ở Trường Sa và cũng không có bất cứ đảo nào bị lực lượng Đài Loan chiếm đóng trong một khoảng thời gian.
(CIA-RDP08C01297R000300180013-8 tài liệu của Dieter Heinzig, giải mật năm 1976)  
Đảo Ba Bình được sử dụng như một bãi chứa vật liệu phế thải mua ở Việt Nam. Năm 1995 Đài Loan chiếm thêm Bãi Bàn Than.
Trong th
ời gian gần đây, Đài Loan đã âm thầm xây hải cảng mới trên đảo Ba Bình, có khả năng tiếp nhận các chiến hạm.
Trên đảo có phi trường 3800x100 ft.


5.- MÃ LAI
Hiện tại Mã Lai đang chiếm đóng các cứ điểm sau đây:
- Đá En Ca (Erica Rf),
- Bãi Thám Hiểm (Investigator Rf hay Shl),
- Đá Kỳ Vân (Mariveles Rf),
- Đá Suối Cát (Dallas Rf)
- Đá Hoa Lau (Swallow Rf):  chiếm từ tháng 6 năm 1983, Mã Lai là nước đầu tiên đã thực hiện các công tác nạo vét để bồi đấp Đá Hoa Lau thành căn cứ quân sự, có phi trường dài 1,5 km. Hiện tại nơi đây còn là địa điểm du lịch.
Năm 1986, Mã Lai chiếm thêm hai bãi đá trong khu vực đá Hoa Lau sau khi phát hiện chiến hạm TC trong vùng.


6.- BRUNEI
Tuyên bố một phần Biển Đông thuộc vùng Đặc quyền Kinh tế của mình, trong đó có khu vực liên hệ đến Mã Lai.



7.- INDONESIA
quần đảo Natuna nằm cách Việt Nam 300 hl về hướng nam, và cách tiểu bang Sarawak của Mã Lai về hưóng tây bắc 200 hl.
Indonesia không tuyên bố chủ quyền đối với bất kỳ đảo, đá nào trong Biển Đông, nhưng có tranh chấp với Việt Nam vì khu vực EEZ của Indonesia tính từ quần đảo Natuna chồng lấn với EEZ của Việt Nam khoảng 100 hl (diện tích khoảng chừng 41.158 km2) và đường lưỡi bò của TC cùng chồng lấn với vùng kinh tế đặc quyền EEZ và thềm lục địa của Indonesia.