HẢI CHIẾN HOÀNG SA
Thềm
Sơn Hà
Từ năm 1956, chánh quyền Việt
Nam Cộng Hòa đã đưa quân trấn đóng và bảo vệ liên tục quần đảo Hoàng Sa thay thế
toán quân trú phòng Pháp. Vì nhu cầu chiến tranh nội địa, về sau trong nhóm
Nguyệt Thiềm duy nhất chỉ có một toán Địa phương quân khoảng trên 20 người đồn
trú trên đảo Hoàng Sa (HS).
Họ không có phương tiện kiểm soát toàn thể vùng lãnh hải, nên các “tàu đánh cá”
Trung Cộng (TC) trong số này có tàu thuộc
lực lượng bán quân sự ‘dân quân biển (maritime militia)’ _ một bộ phận
của Hải quân
Trung Cộng_có
trang bị
vũ khí, chúng vừa hoạt
động thương mại
vừa thi hành các công tác do
thám.
Không từ bỏ ý định chiếm đoạt HS khi cơ hội đến, từ năm 1956 TC bắt đầu xây cất
và bành trướng các cơ sở trên đảo Phú Lâm trong nhóm Tuyên Đức chỉ cách nhóm
Nguyệt Thiềm khoảng 40 hải lý.
Báo cáo hàng ngày của CIA trình lên Tổng thống Hoa Kỳ tháng 4-1973 và các báo cáo
trong hai năm trước đó cho thấy TC nạo vét lối vào cảng Phú Lâm sâu hơn và cầu
tàu cũng được nới dài đến 1500 ft để các loại tàu viễn duyên có thể vào cặp bến.
Các bồn chứa nhiên liệu xây trên đảo Phú Lâm và đảo Đá có khả năng chứa đến 3
triệu gallons.
Trên đảo có khoảng 142 tòa nhà. Lực lượng quân sự, đại bác phòng không và trạm
radar cũng được phi cơ không thám nhận dạng. [1]
Và cơ hội đã đến, sau khi ký kết
hiệp định Paris tháng 1 năm 1973, Hoa Kỳ (HK) triệt thoái
lực lượng ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam Cộng
Hòa (VNCH), Trung Cộng
bắt đầu tiến
hành và
hoạch định kế
hoạch chiếm trọn
quần đảo Hoàng Sa của nước
Việt Nam từ bao lâu nay.
Ngoài lý do chính yếu nêu trên còn vài lý do quan trọng khác:
• Tiềm
năng dầu
hỏa ngoài khơi
bờ biển miền
Nam.
• Xu hướng của
Cộng Sản Bắc
Việt ngày càng
xa Trung Cộng
nghiêng về
Nga Sô.
• Mối
bất hòa gia tăng giữa TC và Nga Sô khiến
TC ra tay trước
để ngăn
chận hải quân
Nga Sô bành
trướng trong vùng Biển Đông
và Ấn Độ Dương.
Bộ Quốc phòng HK trong bài phân tích đi đến kết luận: “tốc
độ của sự bành trướng, sự
hiện diện của một
số tàu
được ngụy trang và
cách
thức chuyên
nghiệp mà
cả lực lượng hải
quân
và
bộ binh thi hành, cho thấy tình trạng huấn
luyện cao và
khả năng dự phòng hoặc soạn
thảo kế hoạch hành quân.” và “vì
đã
chuẩn bị trước cho cuộc
đối đầu ở Hoàng Sa giữa tháng giêng
nên
TC đã
triển khai một số lượng
đáng
kể các
đơn vị hải quân đến căn
cứ Yulin vào khoảng cuối
tháng
12.” [2]
Điện văn gởi về Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (BNG/HK) ngay trong ngày 20/01 Đại sứ
Martin đã có nhận xét thật chính xác: “Rõ
ràng TC không can dự một cách đơn giản qua sự tăng cường lực lượng tại Hoàng Sa mà là cuộc hành quân đã
được hoạch định kỹ lưỡng để chiếm đoạt Hoàng Sa.” [3]
Tài liệu của Bộ Lục quân HK, Cơ quan Tình báo BQP/HK,
BNG/HK, CIA cung cấp qua sự yêu cầu của tác giả xác nhận một cách hùng hồn là
các
nhà lãnh đạo cao cấp TC đã có ý định chiếm đoạt Hoàng Sa từ mùa thu 1973 qua sự khởi đầu bằng các công tác do thám và
thao dượt sau khi đã hoàn tất biến cãi đảo Phú Lâm thành căn cứ hậu cần.
Cho
đến nay TC vẫn còn che đậy sự thật về hải chiến Hoàng Sa, các bài viết, các cuộc
phỏng vấn được phổ biến thường hay phóng đại, sai sự thật và có tính cách tuyên
truyền.
Tuyên cáo chánh thức của TC về biến cố Hoàng Sa phổ biến ngày 19/01 vu cáo: “Khoảng 1 giờ trưa ngày 15 tháng 1, chiến hạm
do chánh quyền Saigon gởi ra đã có hành động quấy nhiểu và phá hoại tàu đánh cá
Trung Hoa mang số 402 đang hành nghề gần đảo Cam Tuyền, bắn vào quốc kỳ của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang cắm trên đảo và đã đuổi tàu Trung Hoa ra khỏi
vùng biển của họ một cách vô cớ…Vào trưa ngày 18-1, hai chiến hạm của chánh quyền
Sài Gòn đã hung hăng và vô cớ đụng vào 2 chiếc tàu đánh cá 402 và 407 và đã làm
sập phòng lái tàu đánh cá 407 ở vị trí phía Bắc bãi đá Hải Sâm.” (điện thư
số 029647 ngày 20-1-1974 của Tổng Lãnh sự HK tại Hồng Kông gởi BNG/HK)
Ngoài ra, một số bài viết khác cho là vì thiếu chuẩn bị nên chúng đã vội
vã huy động lực lượng, bắt buộc sử dụng Kronstadt 271 vừa đóng xong chưa kịp thử
nghiệm, 274 máy diesel trong tình trạng kém nên không đạt được vận tốc tối đa. Và
trong tình trạng tuyệt vọng, 389 vừa đại kỳ xong chưa được chứng nhận đủ khả
năng hoạt động phải đi ngay ra Hoàng Sa, loại khu trục hạm 065 không sử dụng được,
thậm chí không có tàu chuyển vận phải sử dụng 2 chiến hạm Kronstadt 271,274 chở
40 dân quân vũ trang (4 trung đội) đổ bộ lên Quang Hòa và Duy Mộng trong đêm
18/01…
Vì phần lớn dựa trên tài liệu TC, nên bài viết của một số học giả nổi tiếng ngoại
quốc trong đó có “THE 1974 PARACELS SEA BATTLE A Campaign Appraisal” của Giáo sư
Trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ Toshi Yoshihara và “Battle for Paracel Islands” của cựu HQ Đại tá
Hoa Kỳ Carl O. Schuster có vẽ bênh vực TC, do vậy đã vô tình tiếp tay tuyên
truyền, tô điểm cho chiến thắng vĩ đại của chúng!
Không những thế, một số bài viết, chương trình trên youtube từ cộng đồng Việt
Nam trong và ngoài nước cũng cố tình theo khuynh hướng này!
Từ kẻ
xâm lăng,
chúng trở
thành nạn
nhân, ở thế tự vệ.
Trong khi phía VNCH có thái độ
hung hăng,
là bên
khiêu khích.
Tuy nhiên từ nguồn TC vẫn có bài viết tương phản xác nhận TC “có
6 chiếc
loại
6604 săn tàu
ngầm
có thể sử dụng được tại căn cứ Yu
Lin. Hai chiếc
có tình trạng
tốt được chọn và
sau đó được thiết
trí dụng
cụ tốt nhất
trên mỗi
chiếc,
hai chiếc
này mang số
271 và 274 (http://www.81.cn/hj/2015-02/03/content_6314534_5.htm) trùng hợp với tài liệu
CIA xác nhận trước ngày 13/01 tại căn cứ Hải quân Yu Lin và căn cứ Ya Lung gần
đó có 5 chiếc Kronsadt trong tình trạng khiển dụng.
(CIA-RDP78T04752A001400010007-5 February
1974)
Thực sự sáng ngày 19/01 hai tàu chuyển vận đã đổ bộ 400 lính chánh quy lên
đảo Quang Hòa, qua ngày 20/01 chiếc khu trục hạm số 502 (loại 065, TC có 5 chiếc) yểm trợ hải pháo cho lực lượng bộ binh.
Báo cáo CIA trình lên Tổng thống Nixon ngày 28/02 cho thấy ở nhóm Tuyên Đức và
nhóm Nguyệt Thiềm có tổng cộng 35 chiến hạm, trong số này có 2 tàu ngầm loại
Romeo và 2 khu trục hạm.
(DOC_0006007686_February 28, 1974)
Bài phân tích Bộ Quốc phòng/Hoa Kỳ nhận định cấp lãnh đạo dân sự TC đã
nắm phần chủ động, yếu tố chính trị chứ không phải quân sự là ảnh hưởng chính yếu đối với các hành động của Trung Quốc trong cuộc đối đầu ở Hoàng Sa.
Và
TC đã cân nhắc yếu tố chánh trị khi quyết định không tấn công lực lượng VNCH
ngay trong lúc các chiến hạm ta đang thực hiện cuộc đổ bộ lên đảo Quang Hòa, vì
đây là lúc mà các chiến hạm hải quân VNCH dễ bị tấn công nhất. [2]
Rõ ràng TC không muốn là phía khai hỏa trước, vì chỉ hai tháng trước đó Mao Trạch Đông đã đồng ý với Nixon: “Sự công nhận của Trung Quốc đối với quan điểm của Tổng thống là một sự bùng nổ quân sự ở Đông
Dương sẽ có ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích chung của hai bên.”
(Memorandum From
Kissinger to President Nixon_November 19,1973)
Khi
kế hoạch của chúng đã dự phòng tất cả lực lượng kể cả Không quân để bảo đảm nắm
chắc phần chiến thắng một khi trận chiến bùng nỗ thì cần gì chúng phải DIỄU VÕ DƯƠNG OAI.
Chúng cố tình che đậy lực lượng thật sự của chúng, nhất là khi nhóm Nguyệt Thiềm
cách đảo Phú Lâm khoảng 43 hải lý (80 km), và cách căn cứ hải quân quan trọng
Yulin khoảng 150 hải lý.
Đây cũng là thâm ý của TC, vì nếu điều động
lực lượng
hùng hậu cấp
chỉ
huy VNCH sẽ
chùng bước,
trận hải
chiến
có thể
không xảy
ra và giấc mộng
thu tóm Hoàng Sa của
chúng sẽ
không thành tựu.
Ngược lại, cấp chỉ huy HQVN có vẻ
chủ quan và ước
tính sai lầm về khả năng địch, chỉ quan tâm đến
thực lực tức thời của chúng có 2 Kronstadt và 2 tàu đánh cá trong khi bên ta có
3 chiến hạm cỡ lớn và 1 chiếc ngang hàng.
Do vậy khi HQ 5 đến vùng các chiến hạm ta vào đội hình để PHÔ TRƯƠNG LỰC LƯỢNG.
Và
cũng
vì khinh
thường
lực lượng địch
nên ĐĐ Thoại trình lên Tư lệnh Hải quân:
“Tôi
nghĩ càng sớm càng tốt. Bởi vì họ chưa sẵn sàng.”
Đây là cái bẫy mà Trung
Cộng đã giương ra và Việt Nam
Cộng Hòa đã vướng vào.
GIAI ĐOẠN
CHUẨN BỊ
•
Do thám: các “tàu
đánh
cá” TC được tự do ra vào trong hải phận
của nhóm Nguyệt Thiềm từ nhiều năm qua. Vì các tàu đánh cá này bề ngoài có vẻ
chú tâm vào hoạt động đánh cá thương mại nên sự hiện diện thường xuyên của họ
trong hải phận của VNCH không bị cản trở.
Ngoài hoạt động đánh cá, các tàu này còn phục vụ như là nền tảng cho việc thu
thập tin tức tình báo.
Bằng chứng chúng là lực lượng “bán
quân sự” trực thuộc hải quân đã
được không thám HK xác nhận rất nhiều lần kể từ tháng 3/1973 khi phát hiện chúng
trong các căn cứ Hải quân TC.
(CIA-RDP78T04752A0004000110006-7
May 1973 và CIA-RDP78T04752A001300010004-9 January 1974)
Jane’s Fighting Ships 80-81 viết: “Trong những năm đầu của thập niên 1950, một số tàu viễn duyên và các đoàn
tàu đánh cá duyên hải đã được tổ chức thành lực lượng dân quân biển. Các tàu
đánh cá này đặt dưới sự kiểm soát của chi nhánh đảng bộ địa phương, mang theo
đoàn viên của Đoàn Thanh niên Cộng sản và khi cần họ sẽ thi hành công tác yểm
trợ hoặc như là phương tiện che đậy hoạt động bất hợp pháp hay bí mật cho lực
lượng Hải quân. Công tác thường lệ của họ là do thám và theo dõi nhưng trong nhiều trường hợp họ đã được trang bị súng đại liên (trường hợp quần đảo HS năm 1974).”
Với sự ra vào hoàn toàn không bị giới hạn đến các khu vực được lựa chọn là mục
tiêu tối hậu trong nhóm Nguyệt Thiềm gồm các đảo không người Quang Hòa, Duy Mộng,
Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, thủy thủ đoàn của các “tàu đánh
cá” đã có cơ hội chụp hình mỗi đảo, cập
nhật hóa trên hải đồ những vùng nước cạn và thám sát các bãi đổ bộ sử dụng sau này.
Đối với đảo Hoàng Sa là đảo có Địa phương quân (ĐPQ) trú đóng, TC dùng thủ đoạn
lợi dụng lòng nhân đạo và tính hiếu khách của người Việt để thu thập tin tức.
Viên chức DAO Gerald Kosh và vài nhân chứng khác đã được người Việt Nam trú
đóng trên đảo Hoàng Sa cho biết là nhiều lần trong khoảng mùa Thu năm 1973, một
phái đoàn thiện chí TC đổ bộ lên đảo. Mỗi lần như vậy, một toán đổ bộ từ tàu
đánh cá lên đảo và tặng quà “như thực phẩm
và nước uống” cho toán lính VNCH trú đóng trên đảo. Mặc dù bày tỏ mục đích
thân thiện qua những lần thăm viếng nhưng qua sự quen thuộc với địa hình của đảo
Hoàng Sa mà lực lượng tấn công đã chứng tỏ cho thấy một cách hùng hồn là những
phái đoàn “thiện
chí”
này thật ra chỉ là những toán thu thập tình báo. [4]
Tòa Đại sứ HK ở Sài Gòn xác nhận là trước tháng 10-1973 đã xảy ra vài lần giao
thiệp có tính cách xã giao giữa lực lượng hai bên trong quần đảo HS. [5]
Ngoài ra chúng còn quan sát và theo dõi các hoạt động định kỳ thay toán ĐPQ và
toán khí tượng trên đảo Hoàng Sa của chiến hạm Hải quân VNCH.
•
Thao dượt:
sau
khi đã tận tường địa hình, địa thế các đảo và khả năng phòng thủ của toán Địa phương
quân trên đảo Hoàng Sa, TC bắt đầu các công tác thao dượt.
Các chuyến bay không thám của Hoa Kỳ ghi nhận có bằng chứng cho thấy sớm nhất
là vào khoảng trung tuần tháng 12/1973 – và
có thể trước đó vào khoảng tháng 9/1973 – TC đã tích cực huấn luyện lực lượng
tấn công của họ cho cuộc hành quân ngày 20 tháng 1 năm 1974.
Trong thời gian 10 ngày, khoảng hạ tuần tháng 12, 6 tàu đánh cá (loại tàu đánh cá NanYu mang số 401, 402,
405, 406, 407 và 408. Trong số này 2 tàu số 402 và 407 đã được HQ 16 phát hiện
khi đến Hoàng Sa) đã được quan sát hoạt động từ hải cảng và cũng là căn cứ
hải quân Bắc Hải (BeiHai).
Các tàu này thực tập thao dượt từng cặp rời hải cảng vào mỗi buổi sáng và trở về
vào mỗi buổi chiều. Các địa điểm được lựa chọn thao dượt cách Bắc Hải khoảng 2
giờ hải hành có lối vào và bãi biển rất giống với khu vực bao quanh
các đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền, Hoàng Sa.
Sự thiếu kinh
nghiệm
của
Hải
quân TC với
loại
hành quân này cộng
với
sự
nguy hiểm
rõ ràng khi hoạt
động
trong khu vực
kế
cận
bãi đá
ngầm
khiến
cho việc
huấn
luyện
và tập
dượt
trong một
khu vực
với
những
địa thế tương tự là một điều tối cần.
Mặc
dù hoạt động này được quan sát trong tháng 12/1973 nhưng
có thể là những sự chuẩn bị cho cuộc
hành quân tháng 1/1974 thật
ra đã được khởi sự vài tháng trước đó.
Trong tháng 9/1973, TC đã ban hành các biện
pháp an ninh trong căn cứ hải
quân Bắc Hải (Beihai). Các biện pháp này không những được
áp dụng
nghiêm ngặt hơn những
biện
pháp thông thường
trong vùng mà nó còn khắt
khe hơn tất cả
các hải cảng khác của TC trong cùng thời gian. Lý do cho sự thận
trọng
bất
thường
này không được
rõ nhưng
có lẽ liên quan đến các cuộc
chuẩn bị tấn
công đang
tiến
hành ở căn cứ hải quân.
[4]
Dẫn chứng trên cho thấy đã có kế
hoạch phối hợp giữa hải quân và bộ binh qua các lần thao dượt.
Và sự phối hợp này đã được chấp thuận từ Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm Anh, Đặng
Tiểu Bình đến thẩm quyền cao cấp hơn là Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Mao Trạch
Đông.
•
Soạn thảo kế hoạch
Điểm
cần nhấn mạnh là trong kế hoạch TC đã dự trù hai phương thức chiếm đoạt Hoàng
Sa.
a.-
Áp dụng
kế
hoạch
âm
thầm,
hạn
chế
dùng
vũ
lực.
Phương thức này đã được Trung Cộng
quyết định thi hành đầu tiên.
Với sự điều nghiên cẩn thận, TC biết chu kỳ thay đổi Trung đội ĐPQ và nhân viên
đài khí tượng trên đảo Hoàng Sa.
Chúng đã quan sát chiến hạm HQVN thực hiện chuyến thay quân sau cùng vào cuối
tháng 11/1973.
Như
vậy
chuyến
công tác thay đổi toán quân sắp
đến
theo chu kỳ
3 tháng sẽ
xảy
ra sớm
nhất
là vào khoảng đầu tháng 3-1974 hoặc trễ
hơn.
Do vậy, ngay sau khi chấm dứt lần thao dượt sau cùng vào khoảng hạ tuần tháng
12/1973, chúng tiến hành kế hoạch xâm lược vào đầu tháng 1/1974 trước khi đột
ngột tuyên bố chủ quyền trên tất cả các hải đảo trong vùng Biển Đông vào ngày
11/01/1974.
Khởi đầu TC đưa quân lên chiếm đóng hai đảo không người là Quang Hòa, Duy Mộng
cách đảo Hoàng Sa về hướng đông hơn 8 hải lý (khoảng 15 km).
Hoàn tất các cơ sở quân sự căn bản trên hai đảo này, chúng lần mò sang đảo Cam
Tuyền và đảo Vĩnh Lạc. Ngày 10 tháng 1, toán khí tượng trên đảo Hoàng Sa báo
cáo có
tàu lạ neo trong khu vực đảo Cam Tuyền, Nếu như không
có
chuyến
công tác đặc
biệt của HQ 16, với lực lượng ĐPQ
trên đảo Hoàng Sa quá yếu ớt,
kỷ luật lỏng
lẻo,
vũ khí
thiếu
thốn,
ngoài ra còn dễ
dãi và thân thiện
không phân biệt đâu là bạn, đâu là thù …chỉ cần một
hoặc
hai tàu đánh
cá ngụy trang giả vờ
lên bờ thăm viếng
thiện
chí như đã từng
thực
hiện
trước đây, chúng sẽ dễ dàng áp đảo toán ĐPQ để chiếm đoạt đảo Hoàng Sa.
Sau đó TC
sẽ
mang quân lên chiếm đóng và thiết lập hệ thống phòng thủ trên tất cả các đảo
trong nhóm Nguyệt
Thiềm.
Như vậy chúng sẽ chiếm Hoàng Sa một cách êm thắm và đặt VNCH trước chuyện đã
rồi.
b.- Sử dụng phương tiện thích nghi tùy theo biến chuyển của tình thế.
Kế hoạch của TC cũng dự trù loại trừ khả năng chiến thắng và tái chiếm Hoàng Sa của VNCH một khi trận chiến bùng nổ, do vậy chúng
đã tăng cường một lực lượng trừ bị Hải quân hùng hậu tại
căn cứ Hải quân Yulin:
Đặc
biệt tại khu vực đảo Phú Lâm có 2 tàu ngầm loại Romeo và 8 ngư lôi đĩnh (4 chiếc
P-4, 4 chiếc Huchwan).
Về phần Không quân, tài liệu của Bộ quốc phòng HK dựa trên nguồn tin tình báo cho biết là 4
phi cơ chiến đấu MIG-15 thuộc Sư đoàn 12 Không quân Hải quân (Naval Air Division trực thuộc PRCNAF-
People’s Republic of China Naval Air Force) căn cứ tại Yulin đã yểm trợ các
đơn vị hải quân trong cuộc hành quân.
Ngoài ra 20 MIG-15 thuộc hải quân và 6 chiếc
MIG-19 loại trinh sát thuộc không quân được di chuyển sang căn cứ không quân Lingshui
ở Hải Nam.
Các phi cơ này không tham dự hành quân, tuy nhiên được đặt trong tình trạng sẵn
sàng chiến đấu.
Không những
thế, TC đã di chuyển khoảng 100
phi cơ chiến đấu đủ loại đến phi
trường Sui-Ch’i (hay Suihsi, Suixi) để
ứng phó trong mọi trường hợp. [2]
Sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng lực lượng và xây dựng hệ thống phòng thủ trên hai đảo
Quang Hòa, Duy Mộng, Trung Cộng bắt đầu đưa tàu đánh cá sang Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
Chúng
công khai đối đầu và điều động lực lượng tương ứng với sự biến chuyển của tình thế.
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH – DIỄN TIẾN DẪN ĐẾN TRẬN HẢI CHIẾN Ngày
10 tháng 1, Bộ Tư lệnh Vùng 1Duyên hải (BTL/V1DH) nhận được báo cáo từ đài
khí tượng trên đảo HS cho biết có tàu lạ neo trong khu vực đảo Cam Tuyền.
Tuy nhiên có thể vì xem đây như là hoạt động thông thường, tương tự những lần báo
cáo trước, nên giới chức thẩm quyền không có biện pháp đối phó.
Ngày 11 tháng 1 Bộ Ngoại giao TC công bố bản tuyên cáo cáo buộc VNCH “… đặt hơn 10 đảo thuộc quần đảo Nam Sa của
Trung Hoa (TH) dưới quyền quản trị của tỉnh Phước Tuy …”
Hành động này của TC cho thấy một cách rõ ràng là để phản ứng lại nghị
định ngày 6 tháng 9 năm 1973 của chánh phủ VNCH sáp nhập một số đảo ở Trường Sa
vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Mặc dù bản tuyên cáo nhấn mạnh vào quần đảo Trường Sa (TS) cách quần đảo Hoàng
Sa khoảng 400 hải lý (nautical mile =
1852m) về hướng Nam, tuy nhiên TC cũng lập lại việc xác nhận chủ quyền trên
các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Sa (Chungsha-Macclesfield) và Đông Sa
(Tungsha-Pratas).
Tương tự như bản tuyên cáo phản đối chánh phủ Phi Luật Tân trong năm 1971,
nhưng đây là lần đầu tiên TC cho là “…các
tài nguyên thiên nhiên trong vùng biển bao quanh các quần đảo này cũng thuộc về Trung Hoa.”
Ngoài
ra, TC còn dùng lời lẽ cứng rắn có tính cách đe dọa như “nghiêm khắc lên án chánh quyền Sài Gòn vô cớ xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Trung Hoa.”
Ngay sau khi TC tuyên bố
chủ quyền trên cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, ngày 12/01/1974 Bộ Ngoại giao VNCH đã
có phản ứng tức thời qua bản tuyên cáo dưới nhan đề “Việt Nam Cộng Hòa bác bỏ lời tố cáo phi lý của Trung Cộng về quần đảo Hoàng Sa” của
phát ngôn viên Nguyễn bích Mạc và tiếp theo, ngày 16/01/1974 công bố bản “Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa về việc Trung Cộng vi phạm chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
****************************
Trung
tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân đoàn 1 (TL/QĐ1) kiêm Tư lệnh Vùng 1 Chiến thuật
(TL/V1CT) ngõ ý với Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ-Thoại (ĐĐ Thoại) Tư lệnh Hải quân Vùng
1 Duyên hải (TL/V1DH) là ông ‘dự định một
ngày nào đó ra thăm đảo. Ông không biết là ông có thể đáp máy bay xuống đảo được
hay không. Tôi muốn chắc chắn là điều này có thể được, bởi vì tôi không nghĩ là
bất cứ máy bay nào cũng có thể đáp xuống đảo Hoàng Sa. Nhưng tôi vẫn gởi tàu ra
ngoài đó để xem chúng tôi có thể xây một phi đạo hay một cái gì giống như vậy.’
[6]
Thực
hiện ý định của Tướng Trưởng, Bộ Tư lệnh Vùng I Duyên hải (BTL/V1DH) chỉ thị HQ
Trung tá Lê Văn Thự Hạm trưởng Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt - HQ 16 công tác
Hoàng Sa với lý do nghiên cứu sự khả thi để xây một phi đạo trên đảo Hoàng Sa.
Tháp tùng chuyến đi có 3 Sĩ quan và 2 Hạ sĩ quan thuộc BTL/Quân đoàn I/Quân khu
I do Thiếu tá Phạm Văn Hồng hướng dẫn, HQ Đại úy Trần Kim Diệp Trưởng phòng Tình
báo/V1DH và nhân viên cơ quan DAO thuộc Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng là Gerald
Emil Kosh.
Theo ĐĐ Thoại, lý do người Mỹ này tháp tùng theo toán Công binh là vì “Anh ấy từ Tướng Trưởng đến Toà Đại sứ Hoa Kỳ.
Nhưng dù sao, anh đã được gửi đi vì các tướng ở Quân đoàn I có thói quen mời
quan khách mỗi lần có thăm viếng hay chuyện gì đó. Ngày hôm đó, Tướng Trưởng muốn
biết là chúng tôi có thể xây một phi đạo ở ngoài đó, hoặc một cái gì đó giống
như thế. Vì vậy, ông yêu cầu Phòng 3 BTL/QĐ1 gởi người. Và rồi đã xảy ra chuyện
Trưởng phòng 3 gọi viên chức đối tác của mình là ông Tổng Lãnh sự.
Tổng Lãnh sự hỏi anh ấy, "Anh có muốn đi ra Hoàng Sa; có một số Sĩ quan đi
ngày hôm nay?"
Sau đó Tổng Lãnh sự gửi anh ta để chụp ảnh. Tất cả là như vậy. Anh ta đi chỉ để
cho vui. Anh đến gặp tôi; tôi quên tên anh. Tôi nói, "được rồi, không sao
hết."
Tôi không biết là chúng tôi sẽ có một trận chiến hay bất cứ điều gì như thế. Bởi
vì chiến hạm được dự trù trở về vào ngày hôm sau.
Anh ấy chỉ đến đó và rồi tôi nhớ là anh rời Đà Nẵng đêm thứ hai (ngày 14 tháng
1) và tôi đã trù tính anh trở lại Đà Nẵng vào sáng thứ Tư (ngày 16-1).” [6]
HQ 16 rời Đà Nẵng lúc 17:50H.
Cùng ngày, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa công bố bản tuyên cáo của chánh phủ
VNCH xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và ‘Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa nhất quyết bảo vệ chủ quyền Quốc Gia trên các đảo này bằng bất cứ giá nào.’
Ngày
15/01/1974
Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu (TT Thiệu) bắt đầu chuyến thăm viếng chiến sĩ
nhân dịp Tết.
Ông đến Vùng 1 Chiến Thuật buổi sáng, ủy lạo một số đơn vị ngoài mặt trận thuộc
tỉnh Quảng Ngải.
Sau 16 giờ lênh đênh trên biển, HQ 16 đến đảo Hoàng Sa lúc 10:00H, thả neo ở hướng
Đông Nam, chuẩn bị thả tiểu đĩnh đưa phái đoàn tháp tùng lên đảo.
Hoàn tất nhiệm vụ, HQ 16 nhổ neo vận chuyển đến thả trôi ở hướng Đông đảo Cam
Tuyền.
HQ Trung úy Đào Dân đang đi ca từ 1200H đến
1500H trên đài chỉ huy, lúc
14:40H phát hiện cờ TC trên đảo Cam Tuyền cùng với 1 tàu đánh cá neo gần bờ treo
cờ đảng Cộng sản Trung Hoa màu đỏ với hình cái búa và cái lưỡi liềm. Tàu mang số
402, có tên là Ngư (viết bằng tiếng Trung Hoa), trọng tải khoảng 100 tấn. Tàu
có 2 antenna và cần trục trên boong tàu để điều khiển lưới, nhưng không thấy lưới
hoặc vũ khí. Đã có báo cáo tàu neo trong khu vực này từ ngày 10 tháng 1-1974.
Có nhiều ghe nhỏ quanh tàu. HQ 16 dùng quang hiệu để hỏi lý do tàu có mặt nơi
đây, nhưng không được trả lời. Sau khi báo cáo và được sự chấp thuận của Hạm
trưởng, Trung úy Dân ra lịnh nhân viên ‘khai hỏa
khẩu đại liên 30 vừa để gợi sự
chú ý, vừa
có ý đuổi nó ra xa khỏi đảo’. [7]
Loạt
đạn cảnh báo này đã bị TC xuyên tạc qua bản ‘Tuyên cáo của Trung Cộng về biến cố
Hoàng Sa phổ biến ngày 19 tháng 1 năm 1974’ như sau: “Khoảng 1 giờ trưa ngày 15 tháng 1, chiến hạm do chánh quyền Saigon gởi
ra đã có hành động quấy nhiễu và phá hoại tàu đánh cá Trung Hoa mang số 402
đang hành nghề gần đảo Cam Tuyền, bắn
vào quốc kỳ của nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa đang
cắm
trên đảo và đuổi tàu ra khỏi vùng biển của
họ một cách vô cớ.” [8]
Ngay sau khi nhận được báo cáo
phát hiện tàu đánh cá và cờ TC trên đảo Cam Tuyền, BTL/Hải quân liên lạc cơ
quan DAO (Defense Attaché Office) Hoa Kỳ và được thông báo là không ghi nhận có
pháo binh TC trên đảo. HQVN yêu cầu DAO sử dụng phi cơ trinh sát P-3 của Hải
quân HK, DAO khuyến cáo yêu cầu phi cơ của Không quân Việt Nam bay ra quan sát.
Không nhận được sự đáp ứng từ tàu đánh cá TC bằng quang hiệu, lúc 17:30H Hạm
trưởng Thự ra lịnh thả tiểu đĩnh cùng với 6 nhân viên đến gần kiểm soát, người
trên tàu ra dấu không muốn họ đến gần và chỉ cờ TC trên đảo.
Trước thái độ ngoan cố và không nhận được chỉ thị gì khác, lúc 18:00H Hạm trưởng
ra lịnh tiểu đĩnh trở về tàu. Sau đó HQ 16 nhận lịnh từ V1DH thám sát các đảo
còn lại là Vĩnh Lạc, Quang Hòa và Duy Mộng.
TT Thiệu đến Đà Nẵng vào buổi chiều, dùng cơm tối tại Bộ Chỉ huy/Tiếp vận I ở Mỹ
Khê.
Đô đốc Thoại có mặt trong buổi tiệc, ông báo cáo sự phát hiện tàu Trung Cộng
lên Tổng thống Thiệu.
Cùng ngày, dự luật sửa đổi hiến
pháp do phe thân hành pháp soạn
thảo
và bảo
trợ được đưa
ra trước lưỡng viện.
Dự luật này cho phép Tổng thống
Thiệu
và các vị Tổng thống
kế
nhiệm được quyền
ra tranh cử
nhiệm kỳ thứ ba
và nhiệm kỳ Tổng
thống
sẽ được kéo dài 5 năm thay vì 4 năm.
NGÀY 16/01/1974
Vào
lúc 8 giờ sáng, TT Thiệu và phái đoàn trong đó có Trung tướng Lê Nguyên Khang
phụ tá Đại tướng Cao Văn Viên Tổng Tham mưu trưởng QL/VNCH, Chuẩn tướng Trần Đình
Thọ Trưởng phòng 3 Bộ TTM và Trung tướng Ngô Quang Trưởng TL/QĐ I đến BTL/VIDH.
Mặc dù có hai vị tướng thuộc Bộ TTM và TL/QĐ I hiện diện, nhưng TT Thiệu không
có chỉ thị nào cho các vị này mà chỉ ra lịnh riêng cho Đô đốc Thoại:
“Như thế, chúng tôi đã
thảo luận trong một thời gian và sau đó
ông
nói
tôi
chỉ cần đổ bộ quân lên đảo và bảo Trung Cộng ra khỏi. Và tôi đã
nói
tôi
sẽ làm điều đó,
nhưng tôi sợ là có chuyện gì đó
có
thể xảy ra. Và ông nói, "anh chỉ cần tuân thủ luật pháp quốc tế trên không, trên biển và trên đảo. Ngoài biển anh chỉ cần có vài hành động phù hợp với luật pháp quốc tế. Làm những gì anh đã
được huấn luyện tại Trường Sĩ quan Hải quân. Anh phải thi hành". [6]
TT Thiệu viết thủ bút trên ba trang giấy lịnh của ông và đưa cho ĐĐ Thoại đọc, ông
hỏi “Anh
có hiểu lịnh của
tôi?” ĐĐ Thoại trả lời: “Thưa Tổng thống,
tôi hiểu.”
Xong buổi thuyết trình, TT Thiệu rời VIDH tiếp tục đi thăm các chiến sĩ đóng tại
phía Bắc đèo Hải Vân.
Thói quen ra lịnh trực tiếp cho các cấp chỉ huy đơn vị mà không qua hệ thống quân
giai của TT Thiệu đã được thể hiện trong biến cố Hoàng Sa:
• Đề đốc Trần Văn Chơn TL/HQ: “Tổng
Thống đã ra lệnh cho ông Thoại rồi ông Thoại mới báo cáo cho tôi và xin tàu ra,
tôi nói Tổng Thống ra lệnh thì cứ làm đi.”
• Trung tướng Đồng Văn Khuyên Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận QL/VNCH:
“Trong
các chuyến
thanh tra, ông thường
ra lịnh
trực
tiếp
cho các Tư
lịnh Vùng; có những lần khác,
ông tự
tay viết
cho họ.
Do đó, một vài hành động quan trọng đã được thực
thi mà không thông báo cho Bộ
TTM hoặc
không do Bộ
TTM chỉ
huy. Cuộc đụng độ đáng tiếc với chiến hạm Trung Cộng xảy
ra đầu năm 1974 là trường hợp điển
hình.
Ông đưa
ra quyết định đối
phó với
Trung Cộng
sau khi nghe TL/VIDH thuyết
trình mà không thông báo Bộ
TTM.” [9]
Thi
hành lịnh V1DH, trong buổi sáng, HQ 16 tiếp tục thám sát các đảo khác trong
nhóm Nguyệt Thiềm, phát hiện người trên đảo Quang Hòa và tàu thuyền di chuyển
chung quanh đảo Duy Mộng, sau đó quay lại thám sát đảo Vĩnh Lạc.
Lúc 11:00H HQ 16 đưa một toán nhân viên lên đảo Vĩnh Lạc. Họ tìm thấy một quả lựu
đạn, một chai rượu Suntory và nơi giấu thực phẩm trống trơn.
Lúc 12:25H, toán đổ bộ trở về tàu sau khi cắm 2 lá cờ VNCH trên đảo Vĩnh Lạc,
ngay sau đó lúc 13:00H HQ 16 nhận lịnh quay lại đảo Hoàng Sa đón toán Công binh,
Đại úy Diệp và Gerald Kosh trở lại tàu.
Lúc 16:00H BTL/Hành quân/Biển chỉ thị HQ 16 đưa một tiểu đội lên giữ đảo Vĩnh Lạc.
Lúc 19:30H, Hạm trưởng báo cáo vì trời tối và san hô bao quanh nên không thể
thi hành. BTL/V1DH chấp thuận cho HQ 16 tiếp tục tuần tiễu trong đêm và đưa người
lên đảo vào sáng ngày 17/01/74.
Để đối phó với việc HQ 16 phát hiện TC gởi thêm tàu thuyền đến Hoàng Sa, V1DH
chỉ thị Khu trục hạm (DER) Trần Khánh Dư - HQ 4 do HQ Trung tá Vũ Hữu San (k.11/SQHQ/NT) làm Hạm trưởng ra Hoàng
Sa tăng cường HQ 16.
HQ 4 đang tuần tiễu vùng biển Quảng Ngãi tức tốc quay về cặp cầu quân cảng Đà Nẵng
khoảng 17:00H.
Hạm trưởng được lệnh lên họp khẩn cấp ở Trung tâm Hành quân BTL/V1DH.
Lúc 21:30H, sau khi hoàn tất tiếp tế nhiên liệu và thực phẩm HQ 4 rời Đà Nẵng với
27 Biệt hải thuộc Sở Phòng vệ Duyên hải và một nhiếp ảnh viên.
Trong cùng ngày, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc họp
báo tố cáo tàu TC xâm nhập quần đảo Hoàng Sa và đưa người lên đảo là hành động “vi
phạm
chủ
quyền
VNCH”, ông nhận định thử thách bất ngờ này là mối đe dọa
đối với nền hòa bình và an ninh khu vực. [10]
Đồng thời Ngoại trưởng Bắc gởi công
hàm cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc lưu ý về “sự thách đố bất thình lình của Trung Cộng trước
chủ
quyền của Việt
Nam Cộng
Hòa trên quần đảo Hoàng Sa và sự vi phạm
chủ
quyền của Việt
Nam Cộng
Hòa là không chấp
nhận được. Họ tạo ra sự hăm dọa
cho nền
hòa bình và an ninh trong vùng.
Chính
phủ và
nhân dân Việt
Nam dứt
khoát bảo vệ chủ
quyền của mình và toàn vẹn lãnh thổ và không ngại có những
hành động
thích hợp để kết
thúc sự việc này.
Nước
Việt
Nam Cộng
Hòa cho rằng
tình hình gây ra do hành động
của
Trung Cộng
nêu trên là mối
nguy hiểm
cho nền
hòa bình và an ninh thế giới. Vì vậy chính
phủ Việt Nam Cộng
Hòa yêu cầu Hội đồng
Bảo
an Liên hiệp quốc có những
biện
pháp cần
thiết để điều chỉnh
lại
tình hình.”
Ngày 17/01/1974
Tiếp
tục chương trình, sáng ngày 17-01, Tổng thống Thiệu đến Quân đoàn II và ghé
thăm Trung đoàn 47 thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh ở Pleiku, đơn vị này đã tham dự cuộc
hành quân tái chiếm Plei Kjerang.
Sau đó ông đến tỉnh Quảng Đức, thăm căn cứ Trung đoàn 45 ở quận Đức Lập là đơn
vị đã chiếm lại quận Kiến Đức. Trưa ngày 17/01, ông ghé thăm tiền đồn Biệt động
quân gần Daksong.
Thi hành chỉ thị VIDH từ chiều ngày hôm trước, lúc 07:45H Hạm trưởng HQ 16 chỉ
định toán 15 nhân viên HQ 16 do HQ Trung úy Lâm Trí Liêm làm trưởng toán trang
bị vũ khí nhẹ, một súng tín hiệu, một máy PRC-25, xẻng và búa xuống bè cao su
tiến vô đảo Vĩnh Lạc.
Toán đổ bộ đặt chân lên bờ bắt đầu lục soát, báo cáo tìm thấy 6 ngôi mộ đá. Hạm
trưởng ra lịnh phá hủy tất cả vết tích lạ.
Với ý định chiếm lại các đảo đã bị TC chiếm đóng, BTL/HQ tăng cường toán Hải kích
(Seal) gồm 5 Sĩ quan và 38 chiến sĩ trang bị đầy đủ dụng cụ, vũ khí và lương thực
rời phi trường Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn lúc 10:15H.
Phi cơ đến Đà Nẵng lúc 14:00H, toán Hải kích trong tình trạng sẵn sàng chờ lịnh
xuống tàu ra Hoàng Sa.
- lúc 13:50H và tiếp theo lúc 14:45H, HQ 16 báo cáo phi cơ TC bay trên không phận
Hoàng Sa từ hướng Đông Bắc sang hướng Tây Nam và ngược lại.
- lúc 14:42H HQ 16 phát hiện tàu buồm TC với ống khói cao đến gần hai tàu 402 và
407 ở đảo Cam Tuyền.
- lúc 14:46H HQ 800 rời Sài Gòn, dự trù đến Đà Nẵng lúc 14:00H ngày 20/01/1974.
HQ 4 đến đảo Cam Tuyền lúc 15:00H, Hạm trưởng HQ 4 được chỉ định là Sĩ quan
Thâm niên Hiện diện nhận lịnh từ V1DH đưa 27 Biệt hải lên đảo Cam Tuyền.
HQ 4 duy trì ở vị trí cách đảo 1000 yds, trong khi HQ 16 án ngữ phía ngoài ở hướng
Đông Nam canh chừng hai chiếc 402, 407 ở vị trí Nam Tây Nam cách đảo Cam Tuyền
1000 yds.
Ý định tranh giành đưa quân lên đảo Cam Tuyền của TC thể hiện rõ rệt khi HQ 4 vừa
hạ tiểu đĩnh xuống nước, cùng lúc tàu TC cũng cố gắng hạ tiểu đĩnh của họ.
Tuy nhiên các chiến sĩ HQ 4 phản ứng nhanh lẹ hơn nên hoàn tất việc hạ tiểu
đĩnh xuống nước trước.
Thất bại tàu TC buộc lòng phải kéo tiểu đĩnh lên.
Toán Biệt hải lên bờ lúc 15:10H và bắt đầu lục soát trên đảo, họ tìm thấy:
- 1 lá cờ TC cũ rách nát
- 1 tấm bảng mới sơn màu đỏ dài 1m, ngang 0,2
m, trên tấm bảng có chữ Tàu: “nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, lãnh thổ bất khả
xâm phạm.”
- 2 bia đá, một tấm có chữ Việt Nam như là bia
lưu niệm, khoảng 2 m vuông, cao 0,3 m, khắc hàng chữ “Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến đổ bộ đầu tiên”,
dưới hàng chữ là 1 ngôi sao, tiếp theo là hàng chữ “Tiểu đoàn 1 ngày 5 tháng
12-1963.”
- 2 giếng nước nền xi măng và 1 miếu
nhỏ với hàng chữ đã được dựng lên ngày 24 tháng 11-1963.
Khi 2 tàu TC nhổ neo di chuyển HQ 4 tiếp tục bám sát, lúc 18:10H HQ 4 xáp lại cách
50 m để quan sát, sau đó hạ xuồng cao su chở một số nhân viên biết nói tiếng
Trung Hoa định đến gần tiếp xúc với người trên 2 tàu TC, nhưng bất thành vì tàu
chúng trôi ra xa cách đảo Cam Tuyền 6 hải lý về hướng Đông.
Trong lúc tiếp cận tàu đánh cá, HQ 4 báo cáo về đặc tính của chúng:
“hai
tàu này cùng loại
mang số 402
và 407, dài 35 mét, ngang 6 m, trọng
tải
khoảng
140 tấn,
tàu sơn màu
xanh đậm. Mỗi tàu có 1 khẩu đại bác 25 ly với băng đạn ở phía sau ống khói, nòng súng lộ ra ngoài. Các
khu vực
khác trên boong tàu được
che lại
do đó không
thấy được các loại
súng khác. Buồng điều
khiển nằm ở giữa tàu, ống
khói cách mũi tàu
khoàng 2/3, tàu có 2
cần
trục 1
ở
phía trước
và 1ở
phía sau. Trên boong có 2 cột
antenna với dây,
võ tàu bằng
thép, bánh lái có hình chữ V
(loại Hạ Long), có nhiều bè sơn màu đỏ và trắng,
3 tiểu đĩnh sơn màu
trắng.
Một
trong hai chiếc
có 1 tiểu đĩnh bằng
thép.
Trên boong tàu từ
30-35 người mặc đồ
xanh dương đậm đang
quan sát chiến hạm VNCH.”
Qua
nhận xét của G. Kosh, thủy thủ đoàn khoảng chừng 15 người, nhưng tàu có khả
năng chở đến 100 quân lính khi dùng vào mục tiêu quân sự.
Mặc dù 2 tàu đánh cá đã lộ diện là 2 tàu đánh cá vũ trang, nhưng với chỉ thị viết
trong thủ bút của TT Thiệu quá tổng quát ‘hành
động phù hợp với luật pháp quốc tế’, đã được ĐĐ Thoại
hiểu là ông phải dùng biện
pháp ôn hòa thay vì sử dụng vũ lực để bảo vệ sự vẹn
toàn lãnh thổ VNCH, do
vậy ông không chỉ thị HQ 4 và HQ 16 dùng biện pháp cứng rắn.
Khi HQ 4 đến vùng, thấy yếu thế hơn TC lập tức gởi
chiến hạm đến tăng cường, lúc 18:20H hai chiến hạm loại Kronstadt xuất hiện ở phía chân trời trong khu vực đảo
Quang Hòa tiến về đảo Cam Tuyền.
Hạm trưởng HQ 4 báo cáo chúng là tàu TC, có vận tốc lý thuyết 27 knots, mỗi chiếc
trang bị 3 khẩu súng [2 khẩu đại bác 37 ly và 1 khẩu 3.9” 100 ly (LTG: đúng ra là khẩu 3.5”85 ly)].
HQ 4 dùng quang hiệu thông báo cho tàu TC biết là chúng đã xâm nhập lãnh hải Việt
Nam và yêu cầu chúng ra khỏi.
Tàu TC trả lời đây là lãnh thổ của họ và yêu cầu tàu Việt Nam ra ngoài.
[Nội
dung các bản
văn
của
tàu Trung Cộng
chuyển
cho HQ 4 bằng
quang hiệu
như
sau:
• “This is People Republic Of China
territorial water, you should leave out”.
“Đây
là lãnh hải
nước
Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, anh nên đi
khỏi”.
• “Since ancient time Xisha Island has
been China territorial. This is a fact no one can deny. You leave at once”.
“Từ thời
xa xưa,
Hoàng Sa
là lãnh thổ
của
nước
Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây
là một
sự
thật
không ai có thể
phủ
nhận.
Anh ra khỏi
ngay lập
tức
”.
• “From the Navy Of The People Republic
Of China. You should off territorial water”.
“Gởi
từ
Hải
quân Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa. Anh nên ra khỏi
lãnh hải”.] [11]
Hai
chiến hạm TC tiếp tục vận chuyển chung quanh đảo Cam Tuyền, chúng thể hiện thái
độ thù nghịch trong khi HQ 4 và HQ 16 giữ thái độ ôn hòa chờ nhận chỉ thị mới.
Trước sự tăng cường hai chiến hạm TC đến khu vực Hoàng Sa, lúc 18:50H BTL/V1DH
gởi công điện yêu cầu BTL/HQ cho chỉ thị đối phó.
Khối Hành quân thuộc BTL/HQ yêu cầu Hành quân Lưu động Biển (HQ/Biển) ra lịnh:
- chiến hạm VN đang hoạt động trong
khu vực Cam Tuyền giữ thái độ bình tĩnh đến gần đảo Cam Tuyền, nhưng với quyết
tâm cho tàu TC hiểu là các đảo này thuộc về Việt Nam.
- chiến hạm VN không được khiêu khích
trước để xảy ra rắc rối.
- ngoài ra Hành quân/Biển có thể yêu
cầu tăng cường chiến hạm và phi cơ khi cần đến.
- lúc 19:18H hai chiến hạm TC và 2 tàu đánh cá rời khu vực đảo Cam Tuyền hướng
về đảo Quang Hòa.
- lúc 21:15H HQ 16 báo cáo tần số làm việc bị TC phá rối, do đó Hành quân Biển
chỉ thị chiến hạm sử dụng tần số hành quân đặc biệt.
Dự trù đưa quân lên tái chiếm đảo Duy Mộng, lúc 23:00H TL/V1DH chỉ thị HQ 4 phá
hủy bất cứ dấu tích nào của TC trên hai đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và rút toán Biệt
hải trên đảo Cam Tuyền về lại tàu để chuẩn bị đưa họ lên đảo Duy Mộng trước lúc
rạng đông ngày 18/01/74.
Trước tình thế có mòi gia tăng qua sự kiện VNCH lẫn TC tăng cường lực lượng đến
HS có thể đưa đến đụng độ về quân sự, phát ngôn viên BNG/HK tuyên bố HK không
có chủ quyền trên các hải đảo và mặt khác không dính líu; vấn đề này do các quốc
gia tuyên bố chủ quyền tự giải quyết với nhau. Đồng thời BNG/HK chỉ thị Đại sứ
Martin đến gặp và nhấn mạnh với Ngoại trưởng Vương Văn Bắc 4 điểm sau:
a.- sự cần thiết
làm dịu
tình hình.
b.- tránh bất cứ hành động
nào có thể đưa đến sự leo thang.
c.-
lập tức cố gắng đưa sự
xung đột
qua lãnh vực
ngoại
giao như Hội đồng
Bảo
an Liên hiệp quốc.
d.- dù
trong bất cứ trường hợp nào quân đội Hoa Kỳ sẽ không can dự vào.
[12]
Chiều
ngày 17/01, một phái đoàn do TL/HQ hướng dẫn trong đó có HQ Đại tá Đỗ Kiểm Tham
mưu phó Hành quân BTL/HQ đến thuyết trình cho Thủ tướng Trần Thiện Khiêm về tình
hình Hoàng Sa, nhưng không nhận được chỉ thị nào của ông.
Tại Vũng Tàu, lễ bàn giao Tuần dương hạm (WHEC) Trần Bình Trọng - HQ 5 vừa
xong, tân Hạm trưởng HQ Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (k.11/SQHQ/NT) được lịnh trực
chỉ Đà Nẵng.
HQ 5 vào cảng Đà Nẵng khoảng 10 giờ sáng, được chỉ định cặp cầu BTL/V1DH.
Trên cầu tàu, đạn đại pháo 127 ly đã có sẵn từ bao giờ cùng một số lượng lương
khô hành quân.
Hạm trưởng ra lịnh cấm trại 100%. Chỉ có nhân viên ban ẩm thực được phép đi chợ.
Tất cả nhân viên còn lại lo nhận tiếp tế nước ngọt, nhiên liệu và đạn dược nhưng
phải hoàn tất trước 19:00H.
Chiến hạm nhận công điện mời Hạm trưởng, Hạm phó (HP) và các sĩ quan tham mưu
đi họp tại BTL/HQ/V1DH.
Khoảng 16:00H toán Hải kích 43 người xuống HQ 5. Toán tiếp vụ trở về với thực
phẩm tươi.
Họp xong, phái đoàn sĩ quan trở về chiến hạm, HP chỉ thị sẵn sàng khởi hành ra
Hoàng Sa trong đêm.
Thoạt đầu ĐĐ Thoại chọn HQ Đại tá Nguyễn Văn Thiện đang là Chỉ huy trưởng (CHT)
Hải đội Chuyển vận (Hải đội II) thuộc BTL/HĐ vì ông biết rõ Đại tá Thiện và biết
ông có nhiều khả năng, nhưng vì Đại tá Thiện đang lo công tác trục vớt HQ 406 bị
mắc cạn ở Nha Trang, do vậy HQ Đại tá Hà Văn Ngạc CHT/Hải đội Tuần dương (Hải đội
III) là Sĩ quan thâm niên thưộc hạm đội đang có mặt tại Đà Nẵng được ĐĐ Thoại chỉ
định làm SQ Chỉ huy Chiến thuật (OTC_Officer in Tactical Command).
Sau khi dùng cơm chiều với ĐĐ Thoại, Đại tá Ngạc nhập hạm, HQ 5 trở thành soái
hạm.
Hơn hai tháng biệt phái công tác cho
Vùng I Duyên hải, Hộ tống hạm (PCE) Nhựt Tảo HQ 10 trở về Đà Nẵng cặp
cầu Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận
sau chuyến tuần dương cuối cùng để bàn giao lại vùng trách nhiệm cho HQ 11 (Hộ
tống hạm Chí Linh). Tất cả nhân viên chiến hạm đều vui mừng khi nghĩ đến lần
trở về Sài Gòn sắp đến sẽ trùng hợp vào ngày Tết Nguyên Đán.
Bất ngờ chiều 17/01/1974 chiến hạm
nhận lịnh khẩn cấp cùng với Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ 5 lên đường ra
công tác Hoàng Sa.
HQ
10 cấp tốc nhận tiếp tế thực phẩm, nước và nhiên liệu. Ngay sau đó khoảng
20:00H khởi hành đi Hoàng Sa trước HQ 5 với tình trạng chỉ có một máy khiển dụng.
Ngày
18/01/1974
Sáng
ngày 18/01, Tổng thống Thiệu chủ tọa lễ mãn khóa 26 tại trường Võ bị Quốc gia
Đà Lạt, trong bài diễn văn, ông không đề cập đến Hoàng Sa.
Theo Đề đốc Trần Văn Chơn TL/HQ: “Trước
đó tôi nhận được tin cho biết Tổng thống tham dự một cuộc lễ mãn khóa ở Đà Lạt
và Tổng thống muốn gặp tôi ở trên đó nhưng khi tôi lên gặp thì Tổng thống không
nói gì cả.” Tan lễ, TT Thiệu nghỉ đêm tại Đà Lạt, TL/HQ trở về Sài Gòn.
Giữa khuya, lúc 00:20H HQ 5 rời bến chở theo 43 Hải kích ra Hoàng Sa.
Lúc 01:55H, HQ/LĐ/Biển ra lịnh HQ 4 và HQ 16 không được neo, nếu chưa thi hành
lịnh rút toán Biệt hải về tàu, tiếp tục vận chuyển và sau đó trở lại đón họ.
Trước khi rút toán Biệt hải về tàu để thi hành lịnh đưa quân lên đảo Duy Mộng, lúc
02:15H Hạm trưởng HQ 4 sau khi quan sát tình trạng trên đảo Duy Mộng, báo cáo về
V1DH lý do không thể thực hiện được cuộc đổ bộ:
• khả năng lực lượng TC trội hơn lực lượng
ta vì trang bị súng nặng hơn, tầm bắn xa hơn và vận tốc nhanh hơn.
• TC còn có nhiều tàu đổ bộ, một số có
trang bị vũ khí.
• phi cơ TC xuất hiện 3 lần trưa ngày
17/01/74, chứng tỏ chúng sẵn sàng yểm trợ khi cần đến.
• lực lượng đổ bộ của ta quân số ít oi,
trong khi quân số TC trú đóng trên đảo ước lượng chừng 40 người.
• trên đảo có ánh sáng chứng tỏ lính TC
củng cố vị trí phòng thủ sẵn sàng chờ lực lượng ta.
Đồng ý với lời đề nghị hữu lý trên, lúc 03:05H BTL/V1DH ra lịnh cho HQ 4 rút ngay toán Biệt hải
trên đảo Cam Tuyền về lại tàu và chờ lịnh mới.
HQ 5 bắt kịp HQ 10 vào lúc 3 giờ 15
sáng ở vị trí cách đèn Tiên Sa 9 hải lý về hướng Đông.
Trước tình trạng kỹ thuật của HQ 10 chỉ sử dụng được một máy và do nhu cầu hành
quân khẩn cấp, lúc 05:27H, HQ Đại tá Hà Văn Ngạc Chỉ huy trưởng Hành quân quyết
định ra lịnh HQ 5 tăng tốc độ, bỏ lại HQ 10 phía sau.
Ngoài
Hoàng Sa, HQ 4 trong khi sửa soạn rút toán Biệt hải, quan sát thấy 1 tàu TC cách
khoảng 8 hải lý tiến về vị trí mình, khi tàu này di chuyển đến gần trong vòng 4
hl, HQ 4 dùng quang hiệu yêu cầu tàu này ra khỏi hải phận Việt Nam, nhưng tàu
TC không trả lời. HQ 4 vận chuyển lại gần, tàu TC trở về vị trí ban đầu.
- lúc 08:30H, HQ 16 phát hiện thêm hai tàu TC tiến về đảo Duy Mộng, mang tổng số
chiến hạm và tàu TC hiện diện ở Hoàng Sa lên đến 6 chiếc.
- lúc 08:45H, tàu đánh cá 407 di chuyển đến đảo Cam Tuyền, HQ 16 trợ lực HQ 4
ngăn chận 407, do đó HQ 4 không thể đón toán Biệt hải trên đảo Cam Tuyền về lại
tàu như đã nhận lịnh từ BTL/V1DH.
- lúc 09:00H, tàu 407 chỉ cách đảo Cam Tuyền 1000 yds, HQ 4 lần nữa dùng quang
hiệu yêu cầu ra khỏi hải phận VN, tàu TC không tuân lịnh trả lời bằng quang hiệu
đây là hải phận TC.
- lúc 09:45H, tàu 407 trôi ở hướng 130 độ cách đảo Cam Tuyền 3 hl.
- lúc 10:00H, HQ 4 đổ bộ 14 nhân viên cơ hữu lên đảo Cam Tuyền đồng thời rút toán
Biệt hải về tàu. BTL/V1DH chuyển tiếp lịnh từ BTL/HQ đến HQ 4 là đuổi bất kỳ kẻ
lạ nào ra khỏi đảo Cam Tuyền và bảo vệ Cam Tuyền, Hoàng Sa và Vĩnh Lạc bằng mọi
giá. Lúc này chiếc 407 trôi vào gần HQ 16.
- lúc 10:40H, Hành quân Biển yêu cầu Đại tá Ngạc đang ở trên HQ 5 trên đường đến
Hoàng Sa thi hành lịnh của TL/V1DH chiếm đảo Duy Mộng.
- lúc 11:00H, tàu chuyển vận TC rời đảo Duy Mộng và biến mất ngoài khơi.
Ngay
lúc đó, tàu đánh cá 407 bắt đầu di chuyển theo hướng Tây Bắc đến vị trí gần khu
vực đá Hải Sâm. HQ 16 không cần đợi lịnh ngay lập tức chạy đến chận. Khi bị chận,
thủy thủ đoàn tàu đánh cá lập tức lên boong tàu, mặc “sweatsuits” màu xanh, đội
nón rơm (giống như nón lá của người Việt)
và quăng cần câu xuống nước. Lần này chúng che dấu khẩu đại bác 25 ly.
Hạm trưởng HQ 16 chỉ thị nhân viên trên HQ 16 biết nói tiếng Tàu dùng loa phóng
thanh giải thích cho người Trung Hoa biết là họ đang ở trong lãnh hải Việt Nam,
nhưng chúng làm ngơ thông điệp này.
Sau đó HQ 16 vận chuyển chận tàu đánh cá đến gần đảo Cam Tuyền trong khoảng
cách chừng 1000 yards, tàu TC ngừng lại và không tiến lên.
Khoảng 11:30H, tàu TC di chuyển đến vị trí chỉ cách mũi HQ 16 không xa hơn từ
15 đến 20 feet cố tình khiêu khích HQ 16 khai hỏa, sau đó chúng vận chuyển vào
khu vực cạn để dựa theo dòng nước đưa vô gần đảo Cam Tuyền.
Không thể đuổi
theo vì sợ bị mắc cạn, hạm trưởng HQ 16 yêu cầu thẩm quyền cao cấp ở BTL/HQ cho
phép
tác xạ trước mũi để ngăn chận 407 tiến vào đảo.
Đại tá Ngạc ra lịnh HQ 16 cố gắng vận chuyển để chận tàu này và
không được
tác xạ
nhưng cũng không để bất cứ tàu nào của TC đến gần đảo Cam Tuyền. Sự
đối đầu tiếp diễn trong khoảng một tiếng đồng hồ với những lời la hét từ HQ 16
nhưng phía tàu TC vẫn giữ im lặng.
Lúc 12:30H, tàu TC vẫn tiếp tục ngoan cố tiến vào gần đảo Cam Tuyền khoảng vài
trăm yards, TL/V1DH ra chỉ thị cho HQ 16 để tàu TC tiếp tục đến gần, tuy nhiên vẫn
tiếp tục vận chuyển cố gắng chận nó lại.
Trước tình thế bất khả thi vì không thể nào vận chuyển vào vùng san hô nước cạn,
một lần nữa HQ 16 yêu cầu được phép tác xạ lên đảo, nhưng lời yêu cầu vẫn
không được chấp thuận.
Để ngăn cản chiếc 407 đưa người lên đảo, lúc 13:35H Đại tá Ngạc ra lịnh HQ 4 và
HQ 16 lần nữa đưa người lên đảo Cam Tuyền
Mặc dù bị hai chiến hạm ta bám sát truy cản, hai tàu đánh cá TC vẫn giữ thái độ
hung hãn, chiếc 402 di chuyển một cách bất thường rất gần HQ 16, HQ 4 tiếp tục
vận chuyển giữ vị trí ở khoảng giữa đảo Cam Tuyền và chiếc 407. Thấy
thế, tàu TC 407 di chuyển đến chạy bên cạnh và cố tình ép HQ 4 vô bãi đá trong
khu vực đá Hải Sâm và đảo Cam Tuyền.
Quá
tức
giận
trước
hành động
ngang ngược,
khi tàu đánh
cá
407 vừa bắt đầu cắt ngang mũi chỉ
cách HQ 4 khoảng
10m, Hạm
trưởng ra
lịnh
vận
chuyển
dùng mũi tàu ủi thẳng
vào phòng lái tàu đánh cá,
mũi
HQ 4 và neo mũi vướng vào cửa
và hành lang phòng lái làm gãy hành lang và cong cửa phòng lái chiếc 407.
Viên chức cơ quan DAO Kosh xác nhận ‘chỉ
có thể quan sát một bên hông HQ 4 và thấy được rõ ràng là tàu TC 407 nằm ngay
sát bên HQ 4 và sau đó qua hệ thống âm thoại Kosh nghe là tàu TC đã đụng vô HQ
4 và phòng lái của tàu TC bị hư hại.’ [2]
Trước thái độ cương quyết của ta, địch vội vàng tháo lui về khu vực hướng đảo
Quang Hòa, Duy Mộng.
Nghi ngờ có người nhái TC, HQ 4 liệng lựu đạn MK 3 xuống nước nhưng không phát
hiện được ai.
Thi hành chỉ thị của TL/HQ, V1DH ra lịnh Đại tá Ngạc khi HQ 5 và HQ 10 đến nơi, tập trung tất cả chiến
hạm di chuyển đến khu vực đảo Quang Hòa và Duy Mộng để biểu dương lực lượng và thử
phản ứng của TC.
HQ 5 báo cáo đến Hoàng Sa lúc 15:00H, lập tức Hạm trưởng ban hành nhiệm sở tác
chiến toàn diện. Lúc này HQ 16 hầu như gần hết nước và lương thực. HQ 5 cập vào
tiếp tế cho HQ 16.
Từ chiều ngày 17/01 cho đến khi HQ 5 nhập vùng, lực lượng TC tại hiện trường vẫn
chỉ có 2 Kronstadt và 2 tàu đánh cá.
Với
tình trạng
hiện
tại,
cán cân lực
lượng
đang
nghiêng về
phía ta.
Nắm
lấy cơ hội, vị chỉ huy
hành quân ĐĐ Thoại trình lên Tư lệnh HQ: “Tôi nghĩ càng sớm càng tốt. Bởi vì họ chưa sẵn sàng.”
Đồng
quan điểm với ĐĐ Thoại, BTL/HQ ban hành lịnh hành quân tái chiếm Quang Hòa, Duy
Mộng và ra lịnh phô trương lực lượng. Trong trường hợp cấp bách lịnh hành quân
được chuyển bằng khẩu lịnh từ TL/HQ đến TL/VIDH lúc 15:50H:
“chỉ thị lực lượng đặc nhiệm tái chiếm đảo Quang Hòa và Duy Mộng bằng mọi giá, không được trì hoãn vì như thế sự tái chiếm sẽ khó khăn hơn. Lịnh còn chỉ thị nên sử dụng hành động ôn hòa trước, nhưng nếu địch kháng cự, tiêu diệt chúng. Ngoài ra cố gắng vận chuyển đặt 2 chiếc Kronstadt của địch trong tầm tác xạ của các chiến hạm ta.”
Điều này cho thấy là các cấp chỉ huy Hải quân VN có vẻ chủ quan và khinh địch, chỉ quan tâm đến thực trạng mà quên là địch đã
cố tình che đậy lực lượng thật sự của chúng, nhất là khi hậu cứ của chúng là đảo Phú Lâm chỉ cách nhóm Nguyệt Thiềm khoảng 84 km (45 hải lý).
Và đây cũng là sai lầm về mặt
chiến
thuật
khi các cấp
chỉ
huy không nghĩ đến việc
thiết lập tuyến
ngăn
chặn nằm ngoài hướng Đông đảo Duy Mộng để ngăn
ngừa tàu
địch đến từ đảo Phú Lâm.
Lúc
16:00H để quan sát và thăm dò phản ứng TC, ngoài ra cũng để phô trương lực lượng,
các chiến hạm VN vào đội hình hàng dọc HQ 4 dẫn đầu, theo sau là HQ 5 và HQ 16 từ
đảo Cam Tuyền di chuyển đến đảo Quang Hòa.
Khi các chiến hạm ta đến gần đảo Quang Hòa, TC điều động 2 Kronstadt 271, 274
ra nghinh cản. Cả 2 bên đều vào nhiệm sở tác chiến, nhưng các khẩu súng đều ở vị
thế số không. Quan sát trên đảo thấy công sự chiến đấu và giao thông hào bằng
cement đã được xây cất, trên đảo cờ TC bay phất phới.
Tình hình có vẽ căng thẳng vì 2 chiến hạm Kronstadt cố tình chặn đường tiến của
Hải đoàn Đặc nhiệm với tốc độ khá cao, nếu tiếp tục tiến thêm thì rất có thể
gây ra vụ đụng tàu nên các chiến hạm HQVN bỏ ý định tiến tới gần đảo và ngưng
máy, sau đó quay lại thả trôi giữa 2 đảo Cam Tuyền và Quang Hòa.
Lúc 17:25H HQ 5 thả xuồng đưa 1 toán Hải kích 20 người qua HQ 16 và nhận 1 toán
Công binh 5 người (3 SQ và 2 HSQ), 1
SQ thuộc V1DH và 1 nhân viên DAO người Mỹ.
Mất cơ hội thực hiện ý đồ chiếm trọn nhóm Nguyệt Thiềm, TC rút lực lượng về phòng
thủ hai đảo Quang Hoà và Duy Mộng mà chúng đã củng cố.
Đây là ranh giới đã vạch sẵn trong kế hoạch mà Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã
chấp thuận.
Và TC chứng tỏ quyết tâm sử dụng vũ lực khi cơ hội đến qua việc tăng cường chiến
hạm đang có mặt tại đảo Phú Lâm đến nhóm Nguyệt Thiềm để tương xứng với lực lượng
VNCH.
Do vậy chỉ khoảng 4 giờ sau khi đến vùng, HQ 5 lúc 19:15H phát hiện 2 chiến hạm
loại T-43 mang số 389, 396 di chuyển từ hướng Bắc với vận tốc 20 knots.
Đặc
biệt
chiếc
389 trang bị khẩu đại
bác 85 ly trước mũi như loại Kronstadt.
Qua hành động đưa 389 và 396 đến vùng chứng
tỏ TC đã sẵn sàng không như nhận định của cấp chỉ huy HQVN là ‘họ chưa sẵn sàng’.
Lúc
21:00H Đại tá Ngạc thông báo toán Công binh và viên chức DAO Gerald Kosh là họ
sẽ được đưa lên đảo Hoàng Sa vì ông nghĩ là sẽ khó tránh khỏi một cuộc đụng độ
nên không muốn các nhân viên không thuộc Hải quân có mặt trên chiến hạm.
Ưu
tư trước viễn ảnh có thể xảy ra cuộc đụng độ, trước khi từ biệt Đại tá Ngạc hỏi ý Gerald Kosh là nếu trận chiến xảy ra, Đệ thất Hạm đội HK có đến hỗ trợ hay không, Kosh trả lời anh tin là không.
Ngoài
ra, Kosh cho Đại tá Ngạc hay là anh có
chụp xong 3 cuộn phim 35 mm các sự việc đã xảy ra trong đó có hình tàu TC. [2]
Lúc 22:35H Hộ tống hạm Chí Linh HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh
(WPB) 709, 711 và 723 rời Đà Nẵng ra Hoàng Sa mang theo 91 Địa phương quân thuộc
Tiểu khu Quảng Nam và 15 Biệt hải thuộc Sở Phòng vệ Duyên hải.
HQ 10 đến Hoàng Sa khoảng 23:00H mặc dù dự trù nhập vùng lúc 19:00H.
- lúc 23:30H: Gerald Kosh và toán Công binh báo cáo đặt chân lên đảo Hoàng Sa
và đã liên lạc với lực lượng phòng thủ trên đảo.
BTL/VIDH ban hành lịnh hành quân đến các
chiến hạm, nội dung tái chiếm các đảo đã bị TC xâm chiếm và tái thiết lập chủ
quyền VNCH trên các đảo này.
Chỉ huy trưởng hành quân chiến thuật được giao phó cho HQ Đại tá Hà Văn Ngạc trên
HQ 5.
Ngày
19/01/1974
“Trong đêm 18 rạng 19/1/74, các tàu Trung Cộng nhiều lần vận chuyển chặn đầu khiêu khích các
chiến hạm ta, cố tình hành động gây hấn. Các
chiến hạm Trung Cộng vận chuyển bao quanh đảo Quang Hòa như có ý định bảo
vệ đảo này. Các chiến hạm ta cũng vận
chuyển bám sát theo”.
Hiện tại lực lượng địch có tới 6
chiến hạm tại nhóm Nguyệt Thiềm: 2
Kronstadt số
271, 274; 2 T-43 389 và 396; 2 tàu
đánh cá võ trang 402, 407.
Trung Cộng đã cố
thủ
kỹ
càng trên
các đảo Quang Hòa và
Duy Mộng.
Vị trí các chiến hạm HQVN lúc 03:30H chỉ cách Quang Hòa
khoảng 5 hải lý, trong khu vực này không ghi nhận có đá ngầm và các chiến hạm
ta đã quen thuộc (trừ HQ 10).
Lúc 03:50H Đại tá Ngạc ra lịnh các chiến hạm bắt đầu di chuyển từ vị trí nằm
trong lòng chảo tiến đến đảo Quang Hòa. Ông chia bốn chiến hạm thành 2 phân
đoàn:
- Phân
đoàn I gồm HQ 4 và
HQ 5 di chuyển đến hướng Nam và Tây Nam đảo
Quang Hòa.
HQ 5 sẽ đổ quân lên hướng Tây Nam và HQ 4 đổ quân lên hướng Nam.
Phân đoàn trưởng là Hạm trưởng HQ 4.
- Phân
đoàn II gồm HQ 10 và HQ 16 di chuyển đến hướng Tây Bắc đảo
Quang Hòa với nhiệm vụ kềm chế 2 chiếc T 43 và 2 tàu đánh cá. Phân đoàn trưởng
là Hạm trưởng HQ 16.
Đại tá Ngạc ra lịnh tất cả các chiến hạm kiểm soát tình trạng khiển dụng toàn diện
để sẵn sàng tác chiến.
Mặc dù đã nhận 20 Hải kích từ HQ 5 chuyển sang, nhưng có lẽ vì trở ngại truyền tin nên HQ 16 không nhận được lịnh đưa toán này lên bờ.
Lúc
05:00H Vùng I Duyên hải chỉ thị HQ 5 thi hành kế hoạch đã phổ biến đêm qua.
Trên đường di chuyển đến vị trí, lúc 05:15H, khi chỉ cách đảo Quang Hòa không
đầy 3 hải lý, HQ 5 phát hiện
hai tàu chuyển vận TC tiến vào khu vực từ hướng bắc với vận tốc 20 knots, đổ bộ 400 quân lên hướng Đông
Bắc đảo Quang Hòa, nâng tổng số tàu TC hiện diện là 8 chiếc.
Đại
Tá Ngạc lo ngại nếu trận chiến bùng nổ, lực lượng Việt Nam sẽ bị thiệt hại nặng
vì ngoài việc phải chống trả chiến hạm địch, thêm vào đó ông còn phải đổ bộ
quân và lực lượng này sẽ cần sự yểm trợ.
Tuy nhiên, mặc
dù có sự
không cân xứng
về
hỏa
lực,
tầm
đạn
và vận
tốc,
các chiến
hạm
VN sẽ
cố
gắng
thi hành lịnh
đổ
bộ.
Lực
lượng
đặc
nhiệm
sẽ
làm những
gì có thể
được
để
tránh đụng
độ
trước
khi nhận
được
lực
lượng
tăng
viện,
nhất
là không quân.
Ông yêu cầu
phi cơ
được
phái đến
tăng
viện
có mặt
ở
khu vực
trong giờ
đổ
bộ.
Ghi nhận lời yêu cầu của Đại tá Ngạc, TTHQ/V1DH liên lạc TTHQ/Sư đoàn 1/Không quân yêu cầu được không yểm.
Trước sự trình bày hợp lý của Đại tá Ngạc, ĐĐ Thoại nhận thức được cán cân chênh lệch về lực lượng, tình hình đã
thay đổi, địch đang nắm lợi thế.
Ông lo ngại nếu đổ bộ sẽ nắm chắc phần thất bại trong tay. Tuy nhiên đây
là lịnh từ TL/HQ ông phải thi hành và nếu muốn hủy bỏ lịnh đổ bộ tái chiếm đảo Quang Hòa ông chỉ còn hy vọng sau cùng là gọi điện thoại vô Dinh Độc Lập để trình bày thẳng với TT Thiệu, là người đã
ra lịnh trực tiếp bằng thủ bút cho ông trong ngày 16/01.
Tiếc
thay, trong lúc này, TT Thiệu đang ở Đà Lạt, vì thế ông trình bày với vị Đại tá
trong phủ Tổng thống là theo ông nghĩ lực lượng đổ bộ sẽ gặp sự kháng cự. Nhưng vị này vẫn muốn ông làm bất cứ điều gì mà luật pháp quốc tế bắt buộc phải thi hành; có nghĩa là Hoàng Sa thuộc về Việt Nam; Trung Cộng sẽ phải rời khỏi đảo. Và nếu họ nổ súng vào lực lượng ta, bắn trả lại họ. [6]
(LTG:
vị Đại tá đầy uy quyền, thay mặt TT Thiệu để quyết định các sự việc quan trọng
khi ông vắng mặt, có lẽ không ai khác hơn là Đại tá Võ Văn Cầm, Chánh văn phòng
phủ Tổng thống. Ông ít khi tháp tùng TT Thiệu trong các chuyến kinh lý.)
Không còn chọn lựa nào khác, cuộc điện đàm đã giải tỏa trách nhiệm cho ông, lúc
06:00H ĐĐ Thoại ra lịnh Đại tá Ngạc tái chiếm đảo Quang Hòa.
Cũng trong khoảng thời gian này, 2 phi cơ TC bay quanh đảo Quang Hòa, xong mất
dạng về hướng Bắc.
Dự trù sẽ không tránh khỏi đụng độ, ĐĐ Thoại trực tiếp liên lạc Bộ TTM “yêu
cầu
chuyến
bay thu thập
tình báo trên đảo
Phú Lâm nằm ở phía bắc
quần đảo Hoàng Sa để biết được họ có
bao nhiêu chiến hạm. Bởi
vì khi đánh
nhau phải
biết lực lượng địch. Nhưng
rồi,
tôi không được
cung cấp
chuyến
bay, Bộ
TTM không đồng
ý.”
Thi hành lịnh hành quân, Đại tá Ngạc ra lịnh HQ 4 và HQ 5 bắt đầu đưa toán Biệt
hải và Hải kích xuống xuồng cao su kèm theo chỉ thị “… không được nổ súng và lên bờ
yêu cầu toán quân của họ rời đảo.”
Lúc 06:30H, 4 chiến hạm Trung Cộng chia ra làm 2 nhóm:
• Nhóm 2 gồm chiến hạm loại T43 số 389 và 396 di chuyển án ngữ phía Tây Bắc đảo
Quang Hòa để nghinh cản chiến hạm ta. Hai tàu võ trang 402, 407 ở sát bờ phía Bắc
đảo Quang Hòa và 2 tàu chuyên chở ở phía Đông Nam đảo Duy Mộng.
Để đảm bảo nắm lấy phần chiến thắng một khi xảy ra hải chiến, trong đêm
18/1, TC di chuyển
4 Phi tiễn đĩnh Komar đến khu vực Đông
Bắc đảo Duy Mộng.
Lúc
06:30H HQ 4 đổ bộ toán Biệt hải 27 người lên bờ phía Nam. Khoảng 10 phút
sau, lực lượng Biệt hải đặt chân lên đảo, bên trong đảo rất im lìm, trên tàu mọi
cặp mắt, mọi ống nhòm đều nhìn trên đảo, bất cứ chuyển động nào trên đảo đều được
báo cáo cho Hạm trưởng. Cờ được cắm lên bờ cát và hốc đá, lực lượng tiếp tục tiến
vào bên trong đảo.
Trên HQ 5 toán Hải kích 22 người trang bị đầy đủ, gồm súng cá nhân M16, súng
phóng lựu M79 và đại liên M60 chia làm 2 toán xuống 2 xuồng cao su. Xuồng chở
toán đổ bộ nhấp nhô trên sóng, tiến vào đảo, không vào được trên bãi đá ngầm, họ
phải đi bộ vào. Mực nước biển sâu ngang thắt lưng, có chỗ sâu ngang ngực.
Khoảng
cách từ riềm san hô, nơi họ rời xuồng để đổ bộ vào trong bãi cát khoảng 700 m.
Một người bình thường phải mất 15-20 phút mới có thể đến nơi.
Lúc 07:30H HQ 5 hoàn tất đưa toán Hải kích lên bờ ở phía Tây Nam.
Trung úy Đơn dẫn đầu toán đổ bộ tiến vào trong khoảng 200 thước báo cáo chạm
trán một Trung đội lính TC trước mặt và một Đại đội ở sau lưng. Chúng trang bị súng
đại liên và tiểu liên dàn hàng ngang uy hiếp buộc toán Hải kích phải lui dần về
cuối bãi, họ vừa chịu áp lực nặng nề từ lực lượng địch trên đảo vừa bị bao vây
bởi nhiều lính TC và có thể bị bắt.
Dù vậy toán Hải kích vẫn giữ nguyên vị trí và cố gắng kìm hãm sự phẫn nộ.
Ngay sau khi nhận được báo cáo, Tư lệnh/HQ ra lịnh:
- Đại Tá Ngạc tiếp tục cho
lính tiến vào, lập phòng tuyến, giữ bình tĩnh, không để địch tiến lại gần và không để bị địch bắt.
- Tư Lệnh/V1DH chỉ thị lực lượng đặc nhiệm thi hành chiến thuật
cài răng lược trên đất liền lẫn trên mặt biển.
Khi đổ bộ 400 quân lên đảo, TC đã chứng tỏ quyết tâm phải chiếm giữ Quang Hòa và Duy Mộng, chúng không thể nào chùng bước.
Không thể chiếm trọn nhóm Nguyệt Thiềm, ít nhất cũng phải chiếm lấy Quang Hòa và Duy Mộng vì Bắc Kinh cần có một sự thắng lợi về mặt quân sự để lấy lại sự tự tin của quân đội trong cấp lãnh đạo trung ương, tiếp theo cuộc cải tổ lớn tại các bộ tư lệnh quân khu.
Mặt khác có thể là chính Chu Ân Lai đã chủ trương xâm chiếm Hoàng Sa để cho thấy là ông ta cảnh giác chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Trên
mặt biển, chúng cũng tỏ thái độ khiêu khích, lúc 08:10H chiếc 389 của TC tiến về
phía HQ 16 với vận tốc 15 gút cố tình đụng vào phần mũi HQ 16. Khi tàu TC cách khoảng
20 mét, Hạm trưởng hét lên "lấy hết tay lái bên trái", HQ 16 thoát hiểm
tuy nhiên cũng bị mũi tàu địch đâm vào một góc rất nhỏ, quệt dài theo hông bên
phải cho đến mũi tàu.
Không
nhường nhịn, Hạm trưởng HQ 16
nhứt quyết vận chuyển đụng lại vào
phía tả hạm 389 làm
hư hại la bàn
và đài chỉ huy chiếc 389.
Tình
trạng giằng co trên đảo Quang Hòa vẫn tiếp tục, sau đó lính TC trở về vị trí
trong hầm trú ẩn.
Toán
Hải kích vẫn còn ở ngoài bãi biển, lúc 08:30H TC nổ súng vào toán Hải kích khi
họ bắt đầu di chuyển làm 1 Hải kích tử thương và 1 bị thương. Lính TC đã nhận được
lịnh kiềm chế, họ chỉ phản ứng vừa đủ mức để cảnh cáo và chúng đã lựa chọn mục
tiêu là HQ Trung úy Lê Văn Đơn vị SQ chỉ huy.
Toán
Hải kích dù bị thương vong nhưng với kỷ luật cao vẫn tuân theo lịnh nên không
phản pháo.
Sau khi chủ tọa lễ mản khóa 26 Trường
Võ bị Quốc gia, TT Thiệu nghỉ đêm tại Đà Lạt.
Ngại đánh thức TT Thiệu khi trời chưa sáng, vị Đại tá trong phủ Tổng thống chờ
đến khoảng 08:30H báo cáo lên ông nội dung lý do ĐĐ Thoại gọi vô dinh.
TT Thiệu lập tức gọi ra Đà Nẵng, lúc này ĐĐ Thoại đang có mặt trong TTHQ/VIDH, ông
báo cáo tình hình bất lợi, quân ta đổ bộ lên đảo bị quân TC bao vây, chúng nổ súng
vào toán đổ bộ gây thương vong.
Trước khi dứt lời ông thẳng thắn đưa ra nhận xét: “Và tôi đã báo cáo
với ông về tình trạng đảo Quang Hòa; tôi không nghĩ là điều này có thể thực
hiện được, vì sẽ gặp sự chống cự mạnh mẽ”
ĐĐ Thoại vừa tường trình xong, không
kềm hãm được sự phẫn nộ, TT Thiệu đặt câu hỏi ngắn gọn: “Như vậy Hải quân đã làm gì chưa?” xong ông cúp máy.
Câu hỏi
của TT Thiệu đã được ĐĐ Thoại hiểu như là lịnh cho phép ông được quyền sử dụng vũ lực để đáp ứng lại hành động của TC, nhưng lại quá
tổng quát không đi sâu vào chi tiết. Do vậy ông lưỡng lự chọn phương cách đối phó.
Vì TC chỉ nổ súng vào toán đổ bộ trên đảo nên ĐĐ Thoại muốn giới hạn cuộc chiến
trên bộ bằng cách tập trung hỏa lực khai hỏa lên đảo và giữ đầu cầu, do vậy ông
chỉ ra lịnh cho chiến hạm khai hỏa lên đảo.
Nhật ký Hành quân TTHQ/HQ ghi nhận lúc 08:52H ĐĐ Thoại ra lịnh cho toán Hải kích phản pháo và chiến hạm HQVN tác xạ vào đảo trong lúc triệt thoái toán Người nhái và Biệt hải về tàu, nhưng không giao chiến với tàu TC, Đại tá Ngạc được trao quyền sử dụng vũ lực cần thiết trong vùng hành quân để hoàn thành nhiệm vụ.
Ngay lập tức toán hải kích phản công nhưng M79 thì thiếu tầm, còn M16 thì không
ăn thua gì. Họ không có chỗ núp và trở thành mục tiêu cho phía TC, do vậy số thương
vong tăng lên.
Lúc 09:07H toán Hải kích báo cáo 2 chiến sĩ tử thương và 2 bị thương.
Lúc
09:10H lịnh rút lui ban hành, toán Hải kích quyết tâm cố gắng mang xác đồng đội
về tàu, nhưng dưới mức tác xạ dữ dội của TC, họ chỉ mang theo được xác của
Trung úy Đơn và 2 chiến sĩ bị thương, bỏ lại
xác Hạ sĩ nhứt Đỗ Văn Long trên chiến trường. Tất cả vất vả lên xuồng trở về
chiến hạm.
Cuộc đổ bộ đã mang đến thất bại qua lời xác nhận của ĐĐ Thoại:
“Sáng sớm
19/01, Ngạc đổ bộ Hải kích lên đảo Cam Tuyền và Quang Hòa. Tuy nhiên, cuộc hành quân đó đã thất bại vì lực lượng Trung Cộng đã có mặt trên đảo và đông hơn chúng tôi.” [13]
Về
phần TC chúng hạn chế sử dụng vũ lực vì “Yếu tố chính trị chứ không phải quân sự là ảnh hưởng chính yếu đối với các hành động của Trung Quốc trong cuộc đối đầu ở Hoàng Sa.
Và TC đã cân nhắc yếu tố chánh trị khi quyết định không tấn công ngay trong lúc các chiến hạm ta đang thực hiện cuộc đổ bộ lên đảo Quang Hòa, vì đây là lúc mà lực lượng ta để lộ ra yếu điểm.
Trong giờ phút nghiêm trọng này, TL/HQ và phái đoàn gồm có HQ Đại tá Nguyễn Ngọc
Quỳnh, Đại tá Võ Sum, HQ Trung tá Lê Thành Uyển đang trên chuyến bay ra Đà Nẵng.
Hy vọng TC sẽ nhượng bộ rút lui đã tiêu tan và với số lính ít oi không cân xứng
để đối chọi, lúc 09:10H TL/V1DH ra lịnh chiến hạm yểm trợ toán đổ bộ rút lui mang
theo xác Trung úy Đơn và tàn phá đảo Quang Hòa sau khi toán này rút lui.
Tuy nhiên, e ngại TC sẽ nổ súng vào quân ta khi họ đang trên đường trở ra xuồng
và vẫn hy vọng nếu còn giữ đầu cầu vẫn còn cơ hội chiếm lại đảo, lúc 09:22H TL/V1DH
đổi ý ra lịnh mới: “cố gắng giữ đầu cầu, nếu rút lui sẽ chết và lúc ấy khó để tái chiếm đầu cầu.” ***
Nhưng
lúc này hai toán Biệt hải và Hải kích đang trên đường trở về tàu, lịnh này bất
khả thi, do vậy Đại tá Ngạc trả lời:
“chúng tôi hầu như đã hoàn tất
cuộc rút lui. Sau khi rút lui xong, chúng tôi sẽ đổ bộ trở lại.”
Trong
thời gian rút quân, tàu Trung Cộng gửi lời hăm doạ tới HQ 4 bằng quang hiệu: “Nếu anh nổ súng, chúng tôi trả đũa mạnh mẽ đối với sự khiêu khích quân sự nghiêm
trọng của anh”
(nguyên
văn “If you shell to me, we give strong
action against your serious military provocation”)
Lịnh TT Thiệu viết qua thủ bút chỉ muốn ĐĐ Thoại đưa quân lên đảo và bảo quân
TC rời đảo, do vậy đã giới hạn khả năng hành động của ông.
Không muốn trận chiến xảy ra trên mặt biển vì ông sẽ là người phải chịu trách
nhiệm, do vậy TL/V1DH nhấn mạnh khi ra lịnh cho Đại tá Ngạc: “Anh phải cố gắng để tránh trận hải chiến.”
Nhưng
đối với Đại tá Ngạc, việc chiếm lại đảo kể như thất bại, và nếu các chiến hạm
ta khai hỏa tàn phá đảo Quang Hòa thì chắc là tàu TC sẽ không để yên.
Vấn đề quan trọng trước mặt là phải đối phó với tàu TC, do đó ông phản bác: “Tôi phải rút lui để đối phó với 2 tàu TC ở phía Bắc và các tàu TC khác ở phía Nam.”
ĐĐ Thoại lại một lần nữa ra lịnh lực lượng đặc nhiệm giữ đầu cầu.
Đại Tá Ngạc trả lời: “việc giữ đầu cầu không thành vấn đề. Chúng
tôi hầu như đã hoàn tất việc rút lui và sẽ được thực hiện trong vòng 5 phút.”
Trước
sự giằng co giữa ĐĐ Thoại và Đại tá Ngạc, Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy Tham mưu trưởng
Hải quân vị Sĩ quan Thâm niên Hiện diện tại BTL/HQ có mặt trong TTHQ/HQ theo
dõi tình hình đã lấy quyền chỉ huy với chức vụ Xử lý Thường vụ TL/HQ khi ra lịnh
cho ĐĐ Thoại và Đại tá Ngạc lúc 09:27H:
“lực lượng đặc nhiệm giữ đầu cầu và sử dụng các khẩu đại bác bắn vào tàu địch. Đây là lịnh các anh phải thi hành.”
Lịnh này của ĐĐ Thủy dung hòa ý định của cả ĐĐ Thoại lẫn Đại tá Ngạc và giải tỏa trách nhiệm cho ĐĐ Thoại vì bao gồm luôn khai hỏa vào tàu địch.
Tiếp
theo lúc 09:30H TL/V1DH lập lại chỉ thị của ĐĐ Thủy yêu cầu Đại tá Ngạc phải giữ
đầu cầu và dùng hỏa lực tối đa.
- lúc 09:32H, ĐĐ Thủy ra lịnh Đại tá
Ngạc báo cáo khi khai hỏa.
- lúc 09:33H, TL/V1DH hỏi Đại tá Ngạc
HQ 5 đã thi hành lịnh hay chưa?
Để dễ dàng theo dõi diễn tiến, HQ Trung tá Nguyễn Văn Dinh Giám đốc TTHQ/HQ yêu
cầu nhân viên vô tuyến trên HQ 5 chuyển hệ thống liên lạc tự động lên đài chỉ
huy.
- lúc 09:39H, TTHQ/HQ liên lạc với HQ 5 qua máy giai tần đơn và TL/V1DH nhắc Đại
tá Ngạc lịnh giữ đầu
cầu và khai hỏa.
Đại
tá Ngạc trả lời: “sau khi khai hỏa, tôi sẽ tái chiếm đầu cầu. Ngay bây giờ tôi đã triệt thoái. Có khoảng một Tiểu đoàn địch quân
trang bị đầy đủ.”
Giữ đúng lời Đại sứ Martin nói với Ngoại trưởng Vương Văn Bắc trong ngày 17/01 ‘dù trong bất cứ trường hợp nào quân đội Hoa Kỳ sẽ không can dự vào’, lúc 09:50H Tư lệnh
Đệ thất Hạm đội HK gởi công điện thượng khẩn ra lịnh cho tất cả các đơn vị trực thuộc tránh xa khu vực Hoàng
Sa và tránh các hành động có thể được xem như là tham gia hay hỗ trợ cho VNCH ngay sau khi được tin ĐĐ Thủy ra lịnh
chiến hạm Việt Nam pháo kích lên đảo và khai hỏa vào chiến hạm địch,
Trong cùng thời gian HQ 5 điều động nhân viên để chuẩn bị khai hỏa.
Vẫn còn hy vọng tái chiếm đảo Quang Hòa, TL/V1DH lần nữa ra lịnh sử dụng tất cả
súng lớn và súng nhỏ tác xạ lên đảo.
Thi hành lịnh ĐĐ Thoại, Đại tá Ngạc liên lạc các Hạm trưởng tập trung hỏa lực tác
xạ lên đảo. Tuy nhiên Hạm trưởng HQ 4 và HQ 16 không đồng ý với quyết định này
vì nếu tác xạ lên đảo, các chiến hạm TC sẽ thừa dịp khai hỏa vào chiến hạm ta.
Đồng ý với đề nghị hữu lý của Hạm trưởng HQ 4 và HQ 16, Đại tá Ngạc ra lịnh HQ
16 khai hỏa vô tàu địch, HQ 10 pháo kích lên đảo như là hiệu lệnh.
Vài phút sau, lúc 10:14H Đại tá Ngạc được ĐĐ Thoại cho phép triển khai hỏa lực tác
xạ vào chiến hạm của đối phương trước, nếu chiến hạm Việt Nam bị đe dọa.
Trước quyết định sau cùng của ĐĐ Thoại, Đại tá Ngạc hủy bỏ lịnh HQ 10 tác xạ
lên đảo, ông phân chia mục tiêu tác xạ của Phân đoàn I gồm có HQ 4 là 271, HQ 5
là 274.
Mục tiêu của Phân đoàn II gồm có HQ 10 là 396 và HQ 16 là 389. Tuy nhiên trên
thực tế, Phân đoàn II còn phải đối đầu với hai tàu đánh cá 402 và 407.
Vì
HQ 16 không nhận được phản lịnh này nên HQ 10 không được thông báo thay đổi mục
tiêu.
Đại tá Ngạc vững tâm khi được Vùng 1DH thông báo phi cơ thuộc Sư đoàn 1/Không
quân sẽ bay ra sớm để yểm trợ, đồng thời cung cấp cho ông tần số phi cơ để liên
lạc.
Giờ phút nghiêm trọng sắp đến, các chiến hạm Hải quân VNCH chuẩn bị khai hỏa.
Đây cũng là giờ phút bằng vàng mà TC đã kiên nhẩn chờ đợi từ bao lâu nay. Bẫy đã giăng, con mồi sắp sửa lọt vào!
Lúc
10:25H, HQ 10 khai hỏa viên đạn đầu tiên vào tàu địch 396 khi chúng xăm xăm tiến
lại gần, HQ 10 báo cáo qua âm thoại, tiếng nổ được các chiến hạm ta ghi nhận.
Ngay sau đó HQ 16 khai hỏa vô 396.
Cùng
lúc HQ 4 và HQ 5 báo cáo khai hỏa vào 274.
• Mặt trận phía Nam phân đoàn I đối đầu với Kronstadt 271 & 274.
Đại
tá Ngạc vào CIC báo cáo về TTHQ/HQ chiến hạm ta đã khai hỏa vào chiến hạm địch.
HQ
4 được chỉ định mục tiêu là 271, nhưng loạt đạn đầu tiên của khẩu 76,2 ly tự động
trước mũi HQ 4 khai hỏa vào 274, viên đạn đầu tiên không kích hỏa, 4 viên sau
dù bị trở ngại nhưng cũng nhắm đúng mục tiêu trúng đài chỉ huy, viên chính ủy
và hạm phó chiếc 274 tử trận, đạn trúng màn chắn khói, khói bốc lên ngùn ngụt,
ngoài ra đường dây liên lạc nội bộ cũng bị hư hại nhiều nơi.
Trên HQ 5, Hạm phó phân chia mục tiêu cho từng khẩu súng và chỉ thị điều chỉnh
đạn tự hủy và chạm nổ, khẩu 127 ly trực xạ, nhắm vào vị trí chân vịt và hầm
máy, các khẩu 40 ly nhắm vào đài chỉ huy.
Tất
cả súng trên HQ 5 bắt đầu nổ ran, loạt đạn 127 ly từ HQ 5 trúng vô 274 làm hư hại
hệ thống tay lái điện, tàu sắp sửa tiến vào vị trí kẹt giữa HQ 4 và HQ 5. Trước
tình trạng bất lợi, Hạm trưởng 274 ra lịnh chuyển sang lái tay, 3 máy lùi hết tốc
độ tránh khỏi gọng kềm.
Đại
tá Ngạc trở lên đài chỉ huy, HQ 4 báo cáo khẩu 76,2 ly trước mũi bị trở ngại
tác xạ. Lo ngại HQ 4 không đủ khả năng đối đầu với 271, Đại tá Ngạc ra lịnh HQ
4 vận chuyển về hướng Đông Nam.
Vì khoảng cách giữa chiến hạm ta và địch từ 1000 đến 3000 yards do vậy hầu hết
đều là trực xạ. Về phần TC vì tin tưởng HQ 4 là soái hạm nên cả 2 chiếc 271,
274 trong đợt khai hỏa đều hướng khẩu 85 ly trực xạ vào HQ 4, trúng ngay đài chỉ
huy làm 3 chiến sĩ HQ 4 bị thương.
HQ
4 mặc dù đang vận chuyển ra khỏi vòng chiển, nhưng khẩu 76,2 sau lái và các khẩu
súng còn lại vẫn tiếp tục bắn vào 271 đang đuổi theo phía sau, tuy nhiên chỉ có
thể bắn rất chậm thay vì bắn nhanh, tổng cộng tác xạ khoảng 57 viên. Ngoài ra
các loại vũ khí khác cũng được sử dụng tối đa do vậy đã chống đỡ được sự tấn
công dữ dội của chiếc 271.
Với kết quả sơ khởi thất lợi do HQ 4 bị trở ngại tác xạ, Đại tá Ngạc cố gắng
liên lạc với HQ 16 để biết tình trạng phân đoàn II nhưng vô hiệu.
HQ 5 tiếp tục bắn vào chiếc 274, hai bên trực xạ trong khoảng một thời gian, có
5 viên 127 tác xạ trúng 274, chiếc này mất khả năng tác chiến quay về hướng đảo;
tuy nhiên các khẩu súng trên 274 vẫn tiếp tục phản pháo. Đạn 85 ly xuyên thủng đài
chỉ huy HQ 5 đường kính khoảng 0,5m và làm nát máy PRC 25, Đại tá Ngạc phải trở
vô CIC sử dụng máy VRC 46 để liên lạc.
Hy vọng phi cơ sẽ bay ra yểm trợ như đã được hứa hẹn, Đại tá Ngạc hỏi V1DH khi
nào phi cơ sẽ đến?
Từ TTHQ/HQ Đại tá Kiểm Tham mưu phó Hành quân/BTL/HQ trực tiếp thông báo Đại tá
Ngạc là phi cơ đang bay đến để yểm trợ đồng thời khuyến khích chiến hạm ta giữ
bình tĩnh và tác xạ chính xác.
Trong lúc này, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đang hiện diện tại Trung tâm Hành
quân /V1DH, ĐĐ Thoại gọi điện thoại cho Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh Tư lệnh Sư
đoàn 1 Không quân và được ông cho biết khu trục cơ F-5 nếu ra Hoàng Sa chỉ chiến
đấu được mười lăm phút vì sẽ không đủ xăng ở lâu hơn nữa. Trước câu trả lời
gián tiếp từ chối, mặc dù là cấp chỉ huy trực tiếp, Tướng Trưởng không tự mình
quyết định, ông chỉ trả lời ngắn: “Tùy ông
Thoại”.
Hy
vọng không yểm đã trở thành vô vọng!
Cố gắng tiếp tục liên lạc với phi cơ từ 5 đến 10
phút nhưng không được đáp ứng, Đại tá Ngạc ngưng và đổi qua tần số liên lạc HQ 4
nhưng cũng vô hiệu.
Lúc 10:43H, HQ 5 báo cáo phòng vô tuyến trúng đạn phát hỏa, hệ thống truyền tin
bị tê liệt. Không thể sử dụng được máy siêu tần số SSB để liên lạc với
TTHQ/BTL/HQ, Đại tá Ngạc rời CIC.
• Mặt
trận
phía Bắc
phân đoàn
II đối
đầu
với
T-43 389 & 396 và 2 tàu đánh
cá 402 & 407.
Điểm
cần nêu lên ở đây là về kích thước 389 và 396 dài hơn HQ 10, về hỏa lực 389 có
phần trội hơn HQ 10 với 1 khẩu đại bác 85 ly trước mũi, 2 khẩu đại bác 37 ly
sau lái (tương đương với đại bác Bofors
40 ly), 4 khẩu đại bác 25 ly và 4 khẩu đại bác 14,5 ly.
Chiếc 396 trang bị tương tự 389 nhưng phía trước mũi là khẩu 37 ly đôi thay vì
85 ly. Do vậy địch đã áp dụng chiến thuật bám sát vào các chiến hạm ta để làm
giảm đi sự hiệu quả của khẩu 127 ly trên HQ 16 và 76, 2 ly trên HQ 10.
Được chỉ định là chiến hạm khai hỏa đầu tiên, khi tàu 396 hung hăng tiến đến gần
Hạm trưởng HQ 10 Ngụy Văn Thà hét lớn ‘bắn” thẳng vào tàu địch.
Trên
HQ 16, Hạm trưởng ra lệnh các ổ súng phải luôn luôn theo dõi mục tiêu. Sau khi
các ổ súng đã sẵn sàng, HT ra lệnh khai hỏa. Vì không nhận được phản lịnh đổi mục
tiêu là 389 nên HQ 16 cũng khai hỏa vào 396.
Cả hai khẩu 127 trên HQ 16 và 76,2 ly trên HQ 10 đều hướng về đài chỉ huy 396
trong đợt khai hỏa, chiếc này bị trúng đạn ngay đài chỉ huy (ĐCH), khói bốc lên
mịt mù sau đó tàu lùi lại phía sau hoạt động có phần chậm lại.
Trên
HQ 16, tiếng nổ dồn dập của khẩu đại bác 40 ly đôi trước mũi và 2 khẩu 40 ly
đơn tả, hữu sau lái, cùng với tiếng nổ liên hồi của đại bác 20 ly hợp thành một
hòa âm khó tả. Khói thuốc súng từ trước mũi, sau lái, boong tàu phía sau và
ngay dưới đài chỉ huy bay lên làm mờ cả một vùng trời trên chiến hạm. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc vang rền khắp
chốn cộng thêm mùi khói thuốc súng tạo thêm niềm phấn khởi cho tất cả thủy thủ
đoàn.
Về phần Trung Cộng, mục tiêu khai hỏa đầu tiên của 389 và 396 là chiếc HQ 16.
Chiếc 396 sử dụng đại bác 37mm để trấn áp các vị trí quan trọng trên HQ 16 như đài
chỉ huy, hầm máy … v.v…các loại vũ khí nhỏ hơn như đại bác 25 mm và 14,5mm tác
xạ vào boong tàu.
Trong khi đó 389 sử dụng đại bác 85 ly bắn vào hông ngay đường tiếp xúc với mặt
nước của HQ 16, các loại vũ khí khác từ 37 ly trở xuống tác xạ vào HQ 10.
Trận chiến giữa phân đoàn II và 389, 396 không còn phân biệt mục tiêu.
Khi
kho đạn 127 ly trước mũi HQ 16 bị trúng đạn thủng một lỗ và tiếp theo khẩu 127
bất khiển dụng, HQ 10 quay sang tiếp cứu HQ 16, cả hai chiếc hợp lực chống trả 389
và 396.
Tất cả các khẩu súng trên HQ 10 đều nhả đạn vào tàu địch, đại bác 76,2 trên tàu
nhắm chính xác vào mục tiêu, cả hai chiếc 389, 396 đều trúng đạn. Chiếc 389
trúng sân sau, phòng truyền tin, phá hủy khẩu đại bác 37 ly, hầm đạn phát nổ gây
ra lỗ thủng hơi lớn làm nước tràn vào, máy phát điện bị tê liệt và hệ thống lái
bất khiển dụng.
Chiếc 396 bị trúng đạn trên boong tàu gây thương vong, khoảng 11 viên đạn 76,2
từ HQ 10 đã xuyên thủng đài chỉ huy 396, phòng ngủ trên và dưới mặt nước và hầm
đạn. (bài
viết TC khen ngợi 396 là chiếc chiến đấu can đảm nhất trong
trận chiến cũng bị trúng đến 118 viên đạn từ 127, 76, 40 và 20 ly. Trong số này có 11 viên 76 ly và không rõ số lượng đại bác 40 và 20 ly từ HQ 10. [14]
Đến lúc
này HQ 10 vẫn an toàn, đạn từ tàu TC bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt
nước. Dù yếu thế vì chỉ có một máy khiển dụng gây bất lợi về tốc độ và khả năng
vận chuyển, tuy nhiên dưới sự chỉ huy dũng cảm của Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, HQ
10 đã tả xông hữu đột trong trận chiến.
Đang
chiếm ưu thế, bổng dưng khẩu 76,2 ly trên HQ 10 bị trở ngại tác xạ, thêm vào đó
chiến hạm chỉ có một máy khiển dụng, vì thế việc vận chuyển để sử dụng tối đa 2
khẩu đại bác 40 ly ở phía sân sau cùng một lúc rất là khó khăn.
Ngay
trong tình trạng bất lợi này, một trong số 4 Komar ẩn mình ở hướng Bắc đảo Duy
Mộng lợi dụng cơ hội quan sát lúc HQ 10 ở vào vị trí đúng ngay vào tầm tác xạ,
chúng liền phóng ra một hỏa tiển Styx rơi trúng ngay đài chỉ huy, tạo nên tiếng
nổ thật lớn phá tung ĐCH và phòng lái. Hạm trưởng, các Sĩ quan, Hạ sĩ quan và
nhân viên ngành Giám lộ và Vận chuyển có mặt trên ĐCH và phòng lái đều tử trận
ngoại trừ Hạm phó bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải. Ngoài ra hầm máy
và hầm đạn cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung, lửa cháy bừng bừng
khói đen tuôn mịt mù khắp con tàu.
Chiếc 389 sau khi đã cố gắng vá xong lỗ thủng và sửa chửa máy phát điện, quay
trở lại tham chiến. Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, quan sát HQ 10
đang ở trong tình trạng rối loạn, không bỏ lỡ cơ hội chiếc 389 vận chuyển tiến
vào phía sau lái hữu hạm HQ 10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào một vài nhân
viên hơi giao động nhưng 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Sáu vẫn ngang nhiên ghì
chặt nòng súng làm tròn phận sự của mình. Lúc này trên HQ 10 có khoảng trên 50
chiến sĩ đã hy sinh và bị thương nặng nhẹ, khoảng hơn 20 người còn khả năng chiến
đấu.
Với khoảng cách hơn 10 m, lính TC trên 389 ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên,
súng bazooka qua HQ 10 với ý định thanh toán các ổ súng còn lại, sau đó sẽ cặp
vào xua lính tràn qua chiếm đoạt tàu và bắt sống thủy thủ đoàn HQ 10.
Sức công phá dữ dội của hỏa tiễn Styx đã
phá tan ĐCH làm Đại úy Trí rớt xuống phòng lái, tuy nhiên với dáng người to
con, tướng vạm vỡ (cao 1,74 m - nặng 70
kg), HP Nguyễn Thành Trí mặc dù đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng
lên. Đoán được ý định của giặc, từ phòng lái, Đại úy Trí giựt lấy khẩu M16 nhã
hàng loạt đạn vào tàu địch và sau khi đợi tàu địch vào đúng vị trí, ông cố sức
vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ 10 đâm vào
hông bên trái chiếc 389 của địch. (theo Ngụy Minh
Sâm chỉ huy lực lượng TC thì HQ 10 đụng vô
phía sau thân tàu 389 lúc 10:35H)
Quá
bất ngờ trước hành động sáng suốt và quyết tử này, chiếc 389 không còn cách gì
để vận chuyển tránh né khỏi nên đã bị phần mũi của HQ 10 đâm mạnh vào yếu điểm
của chiến hạm là phần sau lái, tạo nên một vết nứt dài 3m sâu 1m. [14]
Sau
khi HQ 10 đụng vào phần lái 389, cả hai chiếc đều bất khiển dụng, HQ 10 vẫn
bình yên nằm trong tình trạng như đang thả trôi trong một vùng nước lặng gió,
và bên cạnh, tàu Trung Cộng 389 cũng trong tình trạng tương tự, hai chiếc nằm
song song bên nhau.
Cú
đụng mạnh này cộng thêm vào những hư hại do hỏa pháo của HQ 10 bắn trúng trong
đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào tình trạng nguy kịch, vì thế sau
khi các chiến hạm ta triệt thoái, 2 tàu đánh cá ngụy trang 402, 407 và chiếc
396 được lịnh đến tiếp cứu, đưa 389 ủi vào bãi san hô trong khu vực đảo Quang
Hòa, thủy thủ đoàn được chuyển qua tàu khác.
Tiếp theo, kho đạn bị phát nổ, tàu tiếp tục cháy cho đến ngày 20/01 và bị chìm
nhưng đã được vớt lên đưa về đảo Phú Lâm sửa chửa khẩn cấp, khoảng 1 tháng sau
được kéo về lục địa sửa chửa tiếp.
Tuy nhiên vì bị thiệt hại quá nặng, không thể phục hồi tình trạng hoạt động nên
389 đã bị phế thải. [14]
Có thể
nói đây là chiến công hiển hách của HQ 10 trong trận hải chiến, mặc dù chỉ có một máy khiển dụng và vũ khí yếu kém nhưng chính HQ 10
đã gây thiệt hại nặng nề cho chiếc 389 về nhân mạng cũng như vật chất.
Lúc này mặt trận phía Bắc chỉ còn HQ 16 đối đầu với
396, dù khẩu 127 bất khiển dụng, các khẩu đại bác 40 và các khẩu súng còn lại vẫn
tiếp tục nhã đạn vào 396.
Không sử dụng
được
Komar vì thiếu
nhiên liệu.
Với
ý định
nắm
phần
chủ
động
chiến
trường,
TC lập
tức
điều động
2 chiếc
Hainan 281 và 282 từ
đảo
Phú Lâm đến
tăng
viện.
Khoảng 10:50H, vì khoảng cách giữa hai phân đoàn quá xa, không quan sát được
nhau, một quả đạn 127 ly từ HQ 5 nhắm vào tàu địch không may trúng vào phía hầm
máy tả HQ 16, nước tràn vào, tàu bị mất điện, HT huy động nhân viên vào công
tác phòng tai và sửa chửa máy điện. Toàn hầm máy chỗ nào cũng bị điện giật. Tất
cả nhân viên đều rời khỏi hầm. Hạm trưởng nhận được báo cáo tàu sắp chìm.
HQ
16 hơi nghiêng về phía tả hạm, từ từ nước vào tình trạng nghiêng càng ngày càng
nhiều. HT chụp lấy micro và ra lệnh: "Tất
cả chiến hạm vào nhiệm sở đào thoát” rồi đến bên tay lái, tự chính ông điều
khiển tàu thay nhân viên tập trung vào nhiệm sở phòng tai.
Khoảng
vài phút sau, Đại úy Hiệp Cơ khí trưởng lên đài chỉ huy báo cáo ông đã khắc phục
khóa kín lỗ thủng, tàu vẫn còn sử dụng được máy hữu.
Ðôi mắt Hạm trưởng sáng lên, nét vui mừng thể hiện qua từng lời khi ông nói vào
micro: "Giải tán nhiệm sở đào thoát,
giải tán nhiệm sở đào thoát".
La bàn bị mất điện nên tàu phải sử dụng la bàn từ như một chiến thuyền, bánh
lái tại đài chỉ huy không hoạt động nên chiến hạm phải điều động những nhân
viên to con khỏe mạnh xuống hầm bánh lái để trực tiếp quay bằng tay cái bánh
lái khổng lồ.
Lúc này tàu đã quay ngược về hướng Tây Bắc, khi tàu gần đảo Hoàng Sa, HT dùng máy
PRC 25 liên lạc Trung úy Liêm SQ trưởng toán lính cơ hữu HQ 16 trên đảo Vĩnh Lạc
giải thích lý do ông không thể đón họ về tàu và giao cho Trung úy Liêm toàn quyền
quyết định.
Tất
cả nhân viên trên HQ 16 đều nghĩ là đạn 85 ly của tàu TC đã bắn trúng phần lái
HQ 16. Về phía tàu TC chúng cũng có cùng ý nghĩ khi thấy HQ 16 nghiêng và quay
ngược về hướng Hoàng Sa, Cam Tuyền.
Không còn bận tâm đến HQ 10 và HQ 16, chiếc 396 quay sang hợp lực với 271 tấn
công HQ 5.
Chẳng nao núng, Trung úy Đồng trưởng khẩu đại bác 127 phản pháo bắn trúng 4
viên vô 271 (https://zhuanlan.zhihu.com/p/26966882).
Địch trả đủa nhắm trúng vào khẩu 127, HQ Trung úy Nguyễn Văn Đồng tử thương, đại
bác 127 ly bất khiển dụng, phòng chuyển đạn cho đại bác 127 ly bị cháy.
Sợ hầm đạn nổ HT cho đánh ngập nước. Hầu hết súng trên HQ 5 đều bị trở ngại, chỉ
còn sử dụng khẩu 40 ly đôi trên sân thượng và 2 khẩu 40 ly đơn sân sau, tuy
nhiên cũng không lâu ống giải nhiệt bằng nước khẩu 40 ly đôi bị bể, súng bất
khiển dụng.
Ngoài ra phòng ngủ bị trúng đạn thủng 2 lỗ, radar phòng không bất khiển dụng. Phòng
cơ khí báo cáo phía hữu hạm trúng đạn 85ly cách mặt nước 2ft, lỗ thủng khoảng
3’x5’, nước biển tràn vào mỗi khi tàu lắc, máy điện ngưng hoạt động. Đại úy Nguyền
Cơ khí trưởng HQ 5 lập tức điều động nhân viên bịt lỗ thủng và khẩn cấp sửa chửa
máy điện.
Trước
tình trạng bất lợi của Phân đoàn I và không tường tận về tình trạng của Phân
đoàn II, lúc 11:00H Đại tá Ngạc ra lịnh HQ 4 và HQ 5 di tản khỏi vòng chiến,
cùng lúc trên HQ 10 Đại úy Trí ra lịnh nhiệm sở đào thoát.
Lúc 11:02H, HQ 4 báo cáo tất cả súng trên tàu đều bất khiển dụng, ngoài ra radar
trên HQ 4 và HQ 5 cũng bất khiển dụng, khoảng 30 phút sau HQ 5 báo cáo mất liên
lạc truyền tin với HQ 4 và không thể thấy HQ 4 hoặc HQ 16 trên màn ảnh radar.
Về phía TC vào thời điểm này các chiến hạm TC cũng không còn khả năng chiến đấu,
HQ 5 ghi nhận 1 chiếc đang cháy và 3 chiếc di chuyển về hướng đảo.
Chiếc 274 bị hư hỏng nặng đã quay đầu về trước, 271 và 396 cũng đang quay về,
tuy nhiên vì ít hư hại nhất nên chiếc 396 được chỉ định hợp lực cùng hai tàu
đánh cá 402, 407 tiếp cứu 389 đang bị cháy.
Trận chiến chấm dứt lúc 11:00H. Thay vì quay trở lại tiếp cứu đồng đội đang bị
lâm nạn, Đại tá Ngạc ra lịnh HQ 4 và HQ
5 triệt thoái về hướng Tây Nam. Hành động này đã được nêu lên trong phúc trình
của Ủy ban Nghiên cứu Hải chiến Hoàng Sa xác định rõ trách nhiệm của Đại tá Ngạc:
- lúc 12:00H, V1DH ra lịnh Đại Tá Ngạc đề phòng Komar địch tấn công HQ 4 và HQ
5 đồng thời trợ lực cho lính bộ binh trên đảo Hoàng Sa và Cam Tuyền.
Ngoài ra Đại tá Ngạc còn được thông báo HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh sẽ đến tăng
cường.
- lúc 12:11H, HQ 4 báo cáo sơ khởi 2 chết, 15 bị thương. Radar phòng không và hải
hành bất khiển dụng, hầm máy bị trúng đạn, hệ thống cứu hỏa bị hư hại nặng, phía
tả hạm bị trúng đạn từ mũi đến lái, phòng lái bị vô nước, trung tâm chiến báo
(CIC) bị trúng đạn.
Hai chiếc Hainan 281 và 282 đến vùng
lúc 12:12H, lúc này trận chiến đã kết thúc, chúng được giao phó nhiệm vụ thanh
toán HQ 10.
Khi 2
chiếc này tới gần, khẩu đại bác 20 ly do 2 chiến sĩ anh hùng Lê Văn Tây và Ngô Sáu
ở lại tử thủ trên HQ 10 bắt đầu nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến lại gần vừa
phản pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại
bác 20 ly từ HQ 10 im bặt, HS1/VC
Lê Văn
Tây và HS/VC Ngô
Sáu đã trúng đạn
của
giặc
thù TC, hy sinh đền nợ
nước
một
cách oanh liệt.
Theo vi.wikipedia.org/wiki/Hải_chiến_Hoàng_Sa_1974
dựa trên tài liệu TC, thì 281 và 282 bị thiệt hại trung bình, điều này chứng tỏ
là chỉ riêng 2 anh, cũng đủ làm địch khiếp sợ và đã gây hư hại cho chúng.
Mặc dù
không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng hình như vẫn chưa an tâm, tàu
TC tiếp tục bắn xối xả vào HQ 10 trong khi HQ 10 đang bốc cháy và trôi lềnh
bềnh cho đến 2 giờ 45 phút trưa thì chìm tại tọa độ 111° 35’48” và 16° 25’ 06”
cách phía Nam đá Hải Sâm (Antelope reef) khoảng 2,5 km mang theo thân xác của
Hạm trưởng Ngụy Văn Thà cùng 54 chiến sĩ anh hùng của Hải quân/VNCH.
Thanh toán
HQ 10 xong, hai chiếc 281, 282 quay lại tiến gần đến các bè, HP Nguyễn Thành
Trí dặn các nhân viên trên bè: “nếu bị
bắt,
bị
đánh cũng
đừng
khóc, đừng
van xin.”
Tất cả đều hồi hộp không biết chúng sẽ hành động như thế nào? Chúng sẽ vớt họ
lên bắt sống làm tù binh? Chúng sẽ bỏ mặc cho bè các anh tiếp tục trôi để chết
lần mòn giữa biển khơi? Hay là chúng sẽ bắn vào bè để giết chết hết các anh …?
Cuối cùng, sau khi chạy quanh các bè khoảng 2 vòng, chúng vẫy tay cười rồi bỏ đi. Chúng đã chọn phương cách thật tàn nhẫn vừa khỏi phí đạn, vừa khỏi tốn công chăm sóc các anh theo luật tù binh quốc tế, vừa khỏi mang tiếng sát nhân vì chúng nghĩ là sớm muộn gì các anh cũng sẽ bỏ mình trên biển khơi. - lúc 13:01H, HQ 4 báo cáo mất liên lạc với HQ 5 và dụng cụ hải hành không hoạt động. Với kinh nghiệm qua nhiều năm đi biển, Hạm trưởng Vũ Hữu San cố gắng lèo lái chiến hạm hải hành qua sự phỏng định, tuy nhiên vẫn gặp khó khăn vì mây và sương mù.
- lúc 13:05H, HQ 5 đã liên lạc được HQ 16 và chuyển tiếp báo cáo thiệt hại từ
HQ 16: hầm máy bị ngập, không bơm nước ra được, tuy nhiên một máy còn hoạt động,
súng 127 ly bất khiển dụng. Về thiệt hại nhân mạng 1 chết và 1 bị thương.
Tư lệnh HQ và Sĩ quan tháp tùng đến V1DH. Với ý định cố thủ các đảo còn lại,
TL/HQ lập tức ra lịnh HQ 4 và HQ 5 bảo vệ Cam Tuyền và Hoàng Sa, mỗi chiếc bảo
vệ một đảo. Trong trường hợp bị tấn công mỗi chiếc ủi bãi lên một đảo, HQ 11 và
3 chiếc Tuần duyên đĩnh sẽ đến trợ giúp họ.
Lúc 14:20H, một lần nữa V1DH lập lại lịnh
của TL/HQ chỉ thị HQ 4 và HQ 5 bảo vệ các đảo Hoàng Sa, Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
HQ 5 báo cáo đang chữa cháy và có thể nhận ra HQ 11 cách 4 hải lý ở hướng đông đảo
Cam Tuyền.
Lúc 15:00H, HQ 16 báo cáo nhân viên đang cố gắng sửa chửa hư hỏng và đang trên
đường hướng về vùng duyên hải.
Lúc 15:45H, V1DH ra lịnh HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh đến đảo Cam Tuyền và liên lạc
toán nhân viên trên đảo Vĩnh Lạc.
Lúc 16:20H, TL/V1DH ra lịnh HQ 11 khi đến vùng chiến, lập tức cung cấp đồ dự trữ
cho 2 toán đồn trú trên đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
Lúc 16:35H HQ 5 báo cáo thiệt hại nhân mạng 3 chết, 18 bị thương, về hư hại vật
chất kho đạn 127 ly bị ngập nước, hệ thống điện cho khẩu 127 ly bị hư, đại bác
40 ly sau lái bất khiển dụng cháy kho tiếp liệu, phòng máy B2 bị lũng 2 lỗ, kho
thực phẩm bị lũng 1 lỗ, kho gạo lũng 1 lỗ, 80% dụng cụ truyền tin bị hư hại, 2
tiểu đĩnh bị hư, hệ thống điện bên mạn phải bị hư hại và nhiều ống nước bị gãy.
Sau khi tường tận về tình trạng của HQ 4 và HQ 5, lúc 17:20H TL/HQ chấp thuận lời
yêu cầu của Đại tá Ngạc cho HQ 5 và HQ 4 trở về Đà Nẵng.
Lúc 19:15H, V1DH ra lịnh HQ 11 tránh bất cứ hành động khiêu khích, nhưng cố gắng
bằng tất cả những phương tiện có thể được để tái tiếp tế nhân viên trên đảo Cam
Tuyền và Vĩnh Lạc. Ngoài ra còn chỉ thị HQ 11 hướng dẫn 3 Tuần duyên đĩnh tìm
kiếm HQ 10.
Lo ngại không đủ khả năng đối đầu với địch, HQ 11 yêu cầu V1DH gởi ra chiến hạm
loại lớn để trợ lực. Khoảng 20:30H, HQ 11 báo cáo đã liên lạc được với toán lính
trên hai đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
Mặc dù đã có chỉ thị từ V1DH tái tiếp tế hai toán quân trên đảo Cam Tuyền, Vĩnh
Lạc và tìm kiếm HQ 10, nhưng có lẽ HQ 11 và 3 WPB đã nhận được phản lịnh nên
không thi hành.
Và cũng ngay trong ngày 19/01, tại Sài Gòn lưỡng viện quốc hội tranh cãi và sau đó đã thông qua dự luật sửa đổi hiến pháp để cho Tổng thống được quyền ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba và nhiệm kỳ Tổng thống sẽ được kéo dài 5 năm thay vì 4 năm.
Mặc
dù với đội quân hùng hậu trên đảo Quang Hòa và lực lượng trừ bị trong nhóm Tuyên
Đức, TC không mở ngay cuộc tấn công chiếm trọn nhóm Nguyệt Thiềm sau khi chiến
hạm ta triệt thoái khỏi vùng chiến.
Ngày 20/01/1974
HQ
4 và HQ 5 về đến Đà Nẵng lúc 08:35H.
Lúc 09:00H, HQ 16 nhờ 2 tàu kéo trợ lực cặp cầu Đà Nẵng.
Sáng ngày 20/01, TC điều động lực lượng hùng hậu tiến về các đảo còn lại trong
nhóm Nguyệt Thiềm.
Lúc 09:00H, khu trục hạm Nanchong 502 và hai tuần duyên hạm loại Shanghai số
639, 653 tiến vào vị trí.
Khoảng 10:00H chúng bắt đầu pháo kích lên đảo Cam Tuyền. Đồng thời hai phi cơ
MIG xuất hiện trên bầu trời Hoàng Sa.
Tiếp theo, 2 tàu đánh cá 407 và 402 tiến vào vị trí hướng Đông đảo Cam Tuyền, một lực lượng hơn 100 lính TC trong quân phục tiêu chuẩn của
bộ binh xuất hiện trên boong của mỗi chiếc và bắt đầu nhanh nhẹn chuyển xuống
nước những chiếc bè cao su màu đen.
Có từ 6 đến 8 lính TC leo từ mỗi thang dây xuống bè. Khoảng 30 bè đã được sử dụng
chở tổng cộng từ 200 đến 240 lính.
Lính TC điều hành việc hạ bè và đưa người xuống một cách nhanh chóng và hiệu
quả chứng tỏ là thao tác này đã được tập dượt kỹ càng. Thêm vào đó, họ chèo bè
rất nhịp nhàng và giữ đúng đội hình chặt chẽ cho đến khi hầu hết các bè đã vượt
qua khỏi vùng đá ngầm, sau đó các bè ở phía sau đổ bộ dài theo phía Đông Bắc
đảo Cam Tuyền.
Lính TC trên bè nhảy xuống vùng nước cạn và tiến ngay vào trong mà không cần
kéo bè lên bãi cát.
Toán
chiến sĩ 14 người thuộc HQ 4 do HQ Trung úy Lê Văn Dũng chỉ huy bố trí ngay bờ
bụi rậm ở hướng Đông đã chống trả mãnh liệt qua những loạt đạn rơi xuống nước gần
những chiếc bè nhưng không thấy chiến hạm TC đáp lại bằng hải pháo yểm trợ.
Qua nhận xét của Kosh “toán chiến sĩ cơ hữu thuộc HQ 4 trên đảo Cam
Tuyền trội hơn quân Trung Cộng đổ bộ lên đảo và đã được huấn luyện kỹ, chỉ huy giỏi.” [15]
Trong lúc tàu TC bắt đầu tác xạ lên đảo Cam Tuyền, toán chiến sĩ 15 người thuộc
HQ 16 trên đảo Vĩnh Lạc do HQ Trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy rút xuống bè đào
thoát.
Kể từ đó V1DH mất liên lạc với hai toán lính trên đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
Mặc dù chiến hạm TC bắn dọn đường liên tục với mức độ vừa phải trong gần một
tiếng đồng hồ nhưng đã không gây ra tổn thất nhân mạng nào về phía VNCH cũng
như không có một cơ sở nào bị hư hại.
Hai tàu đánh cá loại NanYu chưa từng xuất hiện từ trước, tiến vào vị trí cạnh
bãi đá ngầm cách đảo 600 m về hướng Tây Nam.
Sau khi chấm dứt đợt tác xạ dọn đường, cuộc đổ bộ tấn công lên đảo Hoàng Sa bắt
đầu, tương tự như cách thức tấn công lên đảo Cam Tuyền.
Lực lượng tấn công khoảng 2 đại đội chỉ chạm trán với các tràng đạn M16 lẻ tẻ
từ lính phòng thủ.
- Lúc 10:14H, BTL/V1DH
ra lịnh HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh di chuyển về hướng Tây Nam với vận tốc tối đa, sẵn sàng nhiệm sở phòng không.
- Lúc 10:29H hai phi cơ MIG khác bay ra thay thế 2 chiếc đã rời vùng.
- Lúc
10:45H V1DH mất liên lạc với toán phòng
thủ và Gerald Kosh.
Sau cùng TC đưa quân chiếm đảo Vĩnh Lạc một cách dễ dàng vì không gặp một sự chống
cự nào.
- Lúc
18:30H HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh HQ 709, 711, 723 đang trên đường trở về, cách Đà Nẵng 85 hải lý về hướng Đông.
Tóm
lại, trong cuộc hành quân đổ bộ ngày 20/01/1974, qua ghi nhận của Kosh, TC đã sử
dụng khoảng 6 đại đội (600 quân), 6 tàu
đánh cá võ trang, 1 khu trục hạm, 2 tuần duyên hạm.
Ngoài ra theo tài liệu TC còn có 1 T43 số 396, 2 Kronstadt số 271, 275 và 2
Hainan số 281, 282.
Mặc dù nguồn tin từ phía VNCH và các nguồn tin ngoại quốc dựa vào đó loan báo là phi cơ TC oanh tạc trước khi bộ binh đổ bộ lên đảo, nhưng trên thực tế không xảy ra.
Ngay sau khi được tin mất liên lạc với các
toán quân trên đảo Hoàng Sa, Cam Tuyền và Vĩnh Lạc, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc tức
thời gởi văn thư đến Tổng thư ký Liên hiệp quốc (TTK/LHQ) Kurt Waldheim tố cáo
hành động xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Trung Cộng. Đồng thời gởi văn thư yêu
cầu Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ Gonzalo Facio lập tức triệu tập buổi họp thảo
luận về hành động xâm lược bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với Việt Nam Cộng
Hòa để có hành động khẩn cấp khắc phục tình hình và chấm dứt cuộc xâm lược.
Tuy
nhiên TC vẫn trắng trợn bào chữa và biện luận qua văn thư gởi cho TTK/ LHQ trong
cùng ngày:
“Trung Hoa là quốc gia chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi
không bao giờ xâm chiếm lãnh thổ của nước khác, hoặc chúng tôi dung thứ để lãnh thổ chúng tôi bị
xâm chiếm bởi các nước khác.
Để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn
lãnh thổ của Trung Hoa, chánh phủ và nhân dân Trung Hoa có quyền sử dụng tất cả
các hành động tự vệ cần thiết. …Chánh quyền Sài Gòn phải lập tức ngưng tất cả
các hành động khiêu khích quân sự của họ chống lại Trung Hoa và các hoạt động bất
hợp pháp xâm lăng và chiếm đóng lãnh thổ Trung Hoa. Nếu không, họ phải chịu tất
cả các hậu quả bắt nguồn từ đó.”
Cho
dù có ngụy biện đến đâu, ý đồ cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC đã được trình bày ở phần
trên và qua nhận định khách quan nhưng chính xác của Đại sứ Martin trong phúc
trình gởi về Bộ Ngoại giao HK ngày 21 tháng 1 năm 1974 khi ông cho là: [hành động đưa quân lên đảo của VNCH không phải là ý định “quân sự hóa các
đảo.” Đó chỉ là một hành động được coi như là phản ứng đối với sự hiện diện của lực lượng Trung
Quốc trên lãnh thổ mà
trong đó gần 200 năm rõ ràng được xem là thuộc về Việt Nam.
Nhất định là Trung Quốc sẽ tuyên bố là Chính phủ Việt Nam đã khiêu khích cuộc đụng độ, nhưng hồ sơ lưu trữ không xác nhận là Chính phủ Việt Nam đã có ý định mang quân lên đảo hoặc bằng cách khác đe dọa Trung
Quốc.]
Tiếp
theo trong bài phân tích tháng 3-1993 về trận Hoàng Sa năm 1974 và Gạc Ma năm
1988, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đưa ra kết luận về mục đích tối hậu của TC:
“Như thế, cam đoan của Trung Cộng đối với các nước lân cận là sự bành trướng quân sự của họ không phải để xâm lược và Trung Cộng sẽ không can thiệp vào
các vấn đề nội bộ của các nước khác không có nghĩa là Trung Cộng đã từ bỏ sử dụng võ lực để dành lại lãnh thổ mà Trung Cộng xem là của riêng họ.
Trên thực tế, có vẽ như, nếu Trung Cộng không thể lấy lại những khu vực này qua các cuộc thương thuyết, cuối cùng họ sẽ dùng vũ lực để chiếm.” [2]
Nhận xét rất chính xác của BQP/HK đã cho
thấy dã tâm của Trung Cộng khi xua quân chiếm đoạt Hoàng Sa và tương tự trong tương lai chúng sẽ thực hiện ở Trường Sa.
Do vậy trong biến cố Hoàng Sa, cường quốc Trung Cộng đích thực là kẻ xâm lăng, đã âm mưu và thực hành kế hoạch chiếm đoạt Hoàng Sa với thế chủ động, huy động một lực lượng Hải Lục Không quân và dự trù lực lượng trừ bị hùng hậu.
Trong khi VNCH là nước nhược tiểu đang phải đối đầu với Cộng sản miền Bắc và sự cắt giảm về viện trợ quân sự từ Hoa Kỳ sau hiệp định Paris 1973, ở thế thụ động, chỉ đủ thời gian điều động lực lượng hải quân cố gắng áp dụng đường lối ôn hòa bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ quốc gia.
Ngày 20
tháng 1-1974, ngày đau buồn của dân tộc Việt Nam khi quân xâm lược Trung Cộng đã chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa.
THAM KHẢO
*
Các tài liệu này do chính tác giả yêu cầu và sưu tầm.
- Các diễn tiến theo thứ tự thời gian trích từ “NHẬT KÝ HÀNH QUÂN Bộ Tư Lệnh
HQ/VNCH .
- Dựa trên các tài liệu đã tham khảo trong sách ‘SỰ THẬT HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19 THÁNG 1 NĂM 1974’ .
-
THNK/HQ/THĐ 47 trong Hải sử Tuyển tập tháng 1/2019
[1]
CIA-RDP08C01297R00020012004-5 Secret 19 October
1971/CIA-RDP79T00936A010600150001-3 Top Secret 18 April
1972/CIA-RDP79T00936A011600010007-1 Top Secret, 19 April 1973
[2] Bộ Quốc phòng HK (Department of Defense) tài liệu cung cấp cho tác giả
tháng 9/1974.
[3] Điện văn số 028322 ngày 20 tháng 1-1974 TĐS/SG gởi về BNG/HK.
[4]
Bộ Lục quân HK (Department of the US Army)"Chinese Amphibious Assaults in
the Paracel Archipelago." December
27, 1974.
[5] Văn thư ngày 30/10/1973 của
TĐS/HK/SG gởi BNG/HK.
[6] Oscar Fitzgerald. “Interview
with Commodore Ho Van Ky Thoai, VNN - Naval Historical Center 20 September 1975.
[7]
Đào Dân “HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa” Nguyệt San Đoàn Kết - Austin, TX
[8]
Điện văn số 028299 ngày 20 tháng 1-1974 từ Tổng Lãnh sự HK/Hong Kong gởi BNG/HK.
[9] The RVNAF by Lt. Gen Đồng
Văn Khuyên _ U.S. ARMY CENTER OF MILITARY HISTORY _ tháng 12 năm 1978 trang 388
[10] Điện văn số 126812 ngày 16 tháng 1-1974 BNG/HK gởi TĐS/SG.
[11] THĐ 47 “Hải chiến Hoàng Sa” Tổng hội/ HQHH
ấn hành 2004 – USA
[12]
Điện văn số 028302 ngày 20 tháng 1-1974 TĐS/SG gởi BNG/HK
[13] K.W. Taylor _Voice From the Second Republic of South Vietnam_‘Naval
Battle of The Paracels’_Cornell University_2014
[14]
http://www.mdc.idv.tw/mdc/navy/china/t43.htm
[15] Điện văn số 326202 ngày
01/02/1974 của ban thẩm vấn Gerald Kosh gởi cho Tư lệnh Lực lượng HK tại Thái
Bình Dương.
No comments:
Post a Comment