ÂM MƯU và KẾ HOẠCH CƯỠNG CHIẾM HOÀNG SA
THÁNG 1 NĂM 1974 CỦA TRUNG CỘNG
Thềm Sơn Hà
(trích trong "Sự Thật Hải Chiến Hoàng Sa 19/01/1974" lần tái bản năm 2022)
Bài viết nguyên thủy dưới tựa đề “Kế hoạch cưỡng chiếm Hoàng Sa tháng 1 năm 1974 của Trung Cộng”đã được đăng trong đặc san Đồng Nai-Cửu Long số 12 tháng 3-2011 do Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm chủ trương và phổ biến trên www.hqvnch.net từ tháng 9-2011.
Lời mở đầu: Dựa trên một số tài liệu mật về phía Hoa Kỳ, các
bài viết, bài phỏng vấn và sách viết về trận hải chiến Hoàng Sa đã tìm được, đã
đăng tải và đã phát hành từ trước cũng như gần đây; tác giả hy vọng sẽ trình
bày phần nào sự thật về lý do tại sao chúng ta mất Hoàng Sa.
Mặc dù các tài liệu liên quan đến
trận hải chiến Hoàng Sa (HS) cho đến nay vẫn còn nhiều mâu thuẫn, nhưng có một sự
thật không thể chối cãi được là trong trận hải chiến này, tất cả các chiến sĩ
Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (HQ/VNCH) trên các chiến hạm tham chiến đã chiến đấu
một cách anh dũng và can trường trước kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng (TC).
Ấn bản “Conway’s all the
world Fighting Ships 1947-1982 – Part II ấn hành năm 1983” đã viết như sau: “HQ/VNCH đã chứng tỏ sự dũng cảm trong tháng 1-1974.
Trung Cộng đưa một tiểu đoàn xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa cách 225 hải lý về hướng Đông Viêt Nam, nhưng cường quốc Cộng sản đã phải trả giá với 2 chiến hạm bị đánh chìm và 2 chiếc khác bị thiệt hại nặng, bù lại một chiến hạm Việt Nam bị chìm.”
Ulysses O. Zalamea trong bài
“Eagles and Dragons at Sea” đã có nhận xét trung thực và ngắn gọn: “Năm 1974, Hải quân TC đã dùng vũ lực chiếm quần đảo HS từ Việt Nam, để thực hiện điều này, TC đã chịu tổn thất nặng nề.” [1]
Gerald Kosh (người đã chứng kiến những diễn tiến ngay từ đầu) rất khen ngợi các
chiến sĩ HQVN, ông ghi nhận họ “có kỹ
luật và niềm
tự hào, các Sĩ
quan HQVN rất xuất
sắc.”
Ngoài ra Kosh còn nhận xét là
“toán
chiến sĩ
cơ hữu
thuộc HQ 4 trên đảo
Cam Tuyền trội
hơn quân Trung Cộng
đổ bộ
lên
đảo và đã được
huấn luyện
kỹ, chỉ
huy giỏi.” [2]
-------------------------------------------------------------------------------------
Diễn tiến dẫn đến
việc Trung Cộng (TC) chiếm đoạt Hoàng Sa (HS) của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) khởi
đầu bằng bản tuyên cáo ngày 11/01/1974 của Bộ Ngoại giao TC cáo buộc VNCH “… đặt
hơn 10 đảo thuộc quần đảo Nam Sa (Nansha Islands) của Trung Hoa (TH) dưới quyền
quản trị của tỉnh Phước Tuy …”
Hành động này của TC đã cho thấy một cách rõ ràng là để phản ứng lại nghị định
ngày 06/09/1973 của chánh phủ VNCH sáp nhập một số đảo ở Trường Sa vào xã Phước
Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Mặc dù bản tuyên cáo nhấn mạnh
vào quần đảo Trường Sa (TS) cách quần đảo HS khoảng 400 hải lý (nautical mile) về hướng Nam, tuy nhiên
cũng đã lập lại việc xác nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Trung
Sa (Chungsha-Macclesfield) và Đông Sa (Tungsha-Pratas).
Tương tự như bản tuyên cáo phản
đối chánh phủ Phi Luật Tân trong năm 1971, nhưng đây là lần đầu tiên TC cho là “…các
tài nguyên thiên nhiên trong vùng biển bao quanh các quần
đảo này cũng thuộc
về Trung Hoa.”
Ngoài ra, TC còn dùng lời lẽ cứng
rắn có tính cách đe dọa như “nghiêm khắc
lên
án chánh quyền
Sài
Gòn
vô
cớ xâm
phạm sự toàn vẹn lãnh thổ
và
chủ quyền của Trung Hoa.” [3]
Biến cố Hoàng Sa đối với VNCH
là một biến cố bất ngờ và trận hải chiến giữa HQ/VNCH và HQ/TC xảy ra sáng ngày
19/01/1974 theo lời của Đề đốc Trần Văn Chơn Tư lệnh HQ như là một cuộc “…tao
ngộ chiến
...” [4]
Điều này rất chính xác trong vị
thế của VNCH nhưng đối với TC là cả một sách lược và đã được nghiên cứu, chuẩn
bị, thao dượt và thi hành rất chu đáo.
Chính Mao Trạch Đông và Chu Ân
Lai đã chấp thuận kế hoạch hành quân chiếm HS. Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm
Anh và Đặng Tiểu Bình _ người vừa được phục hồi chức vị 9 tháng trước đó _ được
trao nhiệm vụ giám sát [5] (theo tài liệu
của Bộ Quốc phòng HK thì Đặng Tiểu Bình đã chấp thuận kế hoạch hành quân do Tư
lệnh Hải quân/TC Liu Huaqing soạn thảo).
Kế
hoạch của TC dự trù loại trừ
khả năng chiến thắng
và
tái
chiếm Hoàng
Sa của VNCH một khi trận chiến
bùng
nổ, do vậy TC đã
dự trù
lực lượng Hải Lục
Không
quân
cần thiết và đã
cân nhắc đối phó
theo mỗi tình
huống để lúc
nào
cũng duy trì
thế chủ động.
Điển hình
là
TC đã
đưa lực lượng Komar đến
nhóm
Nguyệt Thiềm trước khi xảy
ra đụng độ. Nhưng vì trở ngại
nhiên
liệu, chúng
chỉ gây
thiệt hại cho Hộ tống
hạm Nhựt Tảo HQ 10, nếu
không
lực lượng HQVN sẽ
chịu thiệt hại hết
sức nặng nề.
Ngoại trưởng (NT) VNCH Vương Văn Bắc nhận xét thật chính xác: “… Trung
Cộng đánh chiếm Hoàng Sa (rồi Trường
Sa về sau nầy) hẳn là theo một kế
hoạch đã
soạn thảo lâu
và
ở cấp cao nhất, nhằm
biến biển Ðông
thành
một thứ “biển
nhà,
ao nhà”
(Mare Nostrum), chứ không
phải là
kết quả của một
phút
bốc đồng, trong một
cơn phẫn nộ nhất
thời.” [6]
HQ Đại tá Hà Văn Ngạc người chỉ huy trận hải chiến nhận xét: “Việc
Trung Cộng lấn
chiếm những đảo
không có quân trú phòng của ta trong vùng Hoàng Sa, đã phải
được họ chuẩn
bị và thiết kế
chu đáo
từ lâu trước khi tái
tuyên bố chủ
quyền.”
Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ tại Hồng Kông nhận định: “… có bằng
cớ chính đáng là Trung Quốc
đã
liệu trước về
khả năng hành động
quân
sự tại quần
đảo Hoàng Sa trong khoảng
thời gian trước khi bắt
đầu xảy ra các vụ
rắc rối vào giữa
tháng
giêng.
Dù TC có thực sự
soạn thảo kế
hoạch kích động
một sự cố
để rồi chiếm
trọn tất cả
các
đảo hay không, vẫn
còn
là
một câu hỏi
chưa có câu trả
lời. Nhưng trong bất
kỳ trường hợp
nào,
một khi cuộc giao tranh bắt
đầu, Bắc Kinh đã hành động
một cách dứt khoát và vận
dụng tất cả
lực lượng cần
thiết trục xuất
Việt Nam ra khỏi các đảo
trong đó
có
một số đảo
mà
họ đã chiếm
đóng
trong nhiều năm.” [7]
Có nhiều nguyên do đã đưa TC đến quyết định chiếm đoạt HS, trong đó có lẽ hai
nguyên nhân chính yếu nhất là thái
độ
của
Hoa Kỳ
(HK) và sự
thiếu
quan tâm
trong việc
phòng
thủ
nhóm Nguyệt
Thiềm
(nhóm Lưỡi Liềm) thuộc quần đảo Hoàng Sa của chánh phủ VNCH.
LÝ DO TRUNG CỘNG
CHIẾM HOÀNG
SA
1.- Nguồn
tài
nguyên
hải sản và
phốt phát
a.- Hải sản: vùng Biển Đông rất phong phú về hải sản và nguồn lợi này đã nuôi
sống người dân trong vùng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ngư dân nước ta vẫn
thường xuyên ra tận vùng này để hành nghề từ bao năm nay. Trong khi đó, HQ/VNCH
không đủ khả năng để kiểm soát vùng biển quá rộng lớn, chiến hạm không hiện
diện thường trực để thi hành công tác tuần tiễu, vì thế ngư dân TC cứ tiếp tục
vi phạm lãnh hải nước ta để khai thác hải sản.
Tổng số lượng hải sản trong Biển
Đông được ước lượng có thể khai thác đến 30 triệu tấn mỗi năm, nhưng hiện nay
chỉ có khoảng 13% là được khai thác.
Ngoài ra việc khai thác hải sản
còn mang lại lợi tức cho gần 80 triệu người sinh sống dọc theo vùng duyên hải
tiếp cận Biển Đông. Nguồn lợi thiên nhiên này đã có từ ngàn đời trước và sẽ còn
mãi trong tương lai.
b.- Phốt phát: vốn là các đảo hoang từ ngàn năm
trước nên chim chóc (chính yếu là chim Hải âu) đã tụ tập về đây trú ngụ và sinh
đẻ, nhiều nhất là trên đảo Vĩnh Lạc và bãi Xa Cừ. Phốt phát do phân chim tác
dụng trên chất vôi của san hô trải qua bao năm tháng dưới những cơn mưa, bão
miền nhiệt đới tạo nên. Những lớp phốt phát chiếm khoảng từ 23% đến 25% trên
một số đảo, khoảng 42% trên các đảo khác và chiều dày thường trên 1m
Theo E. Saorain trong cuốn “Archives
Geologique du Vietnam”, số lượng phốt phát có thể khai thác được trên quần đảo
HS lên tới 10 triệu tấn.
Căn cứ theo tài liệu của Tổng nha
Khoáng chất và Công kỹ nghệ, số lượng phốt phát trên các đảo trong nhóm Nguyệt
Thiềm thuộc quyền kiểm soát của VNCH như sau:
-
Đảo Hoàng Sa: từ 562.000 đến 960.000 tấn, trên
đảo có hệ thống đường rầy và cây cầu nhỏ để mang phốt phát xuống tàu.
-
Đảo Cam Tuyền: từ 675.000 đến 1.400.000 tấn. Để
cho việc chuyển vận phốt phát được dễ dàng, nguời Nhật đã dựng lên những khối
phốt phát để cản sóng và cây cầu sắt dài khoảng 300m. Những cơ sở này đã bị bỏ
phế vì việc khai thác không mang lại lợi nhuận.
-
Đảo Vĩnh Lạc: từ 787.000 tấn đến 1.200.000 tấn.
-
Đảo Duy Mộng: từ 675.000 tấn trở lên [8].
2.- Triển
vọng về dầu hỏa
Các cuộc thăm dò ngoài khơi Biển Đông do cơ quan ECAFE (Economic Commision for Asia and the Far
East) thuộc Liên hiệp quốc bảo trợ vào cuối năm 1968 và đầu năm 1969 đã mang
lại những kết quả rất khích lệ, chứng tỏ có thể có những túi dầu dự trữ thật
lớn nằm dưới lòng Biển Đông nhất là trong khu vực TS kéo dài đến HS và khu vực bãi
ngầm Macclesfield nằm về hướng đông nam HS.
Tháng 6/1971, chánh phủ VNCH loan
báo ý định cấp quyền thăm dò và khai thác dầu hỏa trong khu vực trải dài từ
Biển Đông cho đến vịnh Thái Lan [9].
Tài liệu nghiên cứu trong tháng
7/1971 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (BNG/HK) nhận xét: “Biển
Đông
trong thời gian gần đây đã
trở thành
địa điểm gia tăng
sự bất ổn vì Phi Luật Tân đưa quân vào quần
đảo TS, đồng thời yêu cầu
Đài
Loan rút
khỏi đảo Ba Bình.
Những hành
động gần đây
ở Biển Đông
có
thể là
do kết quả của sự
nhận thức là
tiềm năng dầu khí rất
lớn.”
[10]
Tháng 7/1973, 4 công ty dầu ngoại
quốc Shell, Mobil, Esso và Sunnydale đã trả lệ phí tổng cộng là 16,6 triệu
dollars để được chánh phủ VNCH cấp quyền thăm dò dầu hỏa trong 8 lô trên tổng
số 40 lô (mỗi lô rộng 7,000 km2) [11].
Cũng trong năm 1973, Phi Luật Tân
nhượng quyền khai thác cho công ty hỗn hợp Thụy Điển-Phi Luật Tân ở khu vực
ngoài khơi quần đảo TS nằm về hướng tây đảo Palawan.
Văn thư của Đại sứ Martin gởi Hội đồng An ninh Quốc gia HK có viết như sau: “…theo
báo cáo sơ bộ
thăm dò địa
chất bắt đầu
lộ ra, có thể
có một số lượng
khổng lồ dầu
hỏa dưới lòng Biển
Đông
trong vùng
lân
cận của các phần
bất động sản
này,
nếu không thì chẳng
có
giá
trị gì.” [12]
Tuy VNCH không bao gồm HS trong các khu vực nhượng quyền khảo sát dầu hỏa nhưng
TC nhận thức là đã đến lúc cần phải chận trước bằng cách chiếm trọn HS để điều
này sẽ không xảy ra.
Ngoài ra hành động của TC ở HS cũng có thể có ý định hạn chế các cố gắng khai
thác dầu của các quốc gia khác cùng xác nhận chủ quyền ở Trường Sa.
Và sau cùng, TC còn có ý cũng cố
chủ quyền của họ trước khi hội nghị về luật biển sẽ diển ra vào tháng 6-1974 tại
Caracas, Venezuela [3].
Bản tin CIA số 289 trong ngày
19/01/1974 nhận xét: “Trung Quốc
cảm thấy cần
phải tái khẳng
định quyền lợi
của mình vì các nhượng
bộ gần đây mà chánh phủ
Sài Gòn đã
cấp cho các công ty Tây phương
thăm dò dầu
ngoài
khơi.”
Nhật báo The New York Times ngày
22 tháng 1: “Các viên chức thuộc
BNG/HK cho là sự khai thác các mỏ
dầu có thể
có chung quanh quần đảo
Hoàng
Sa và
Trường Sa đã là động
lực cho TC và VNCH khẳng
định chủ quyền.”
Việc đi tìm những nguồn cung cấp
nhiên liệu là điều kiện thiết yếu của TC. Tháng 9-1993, Phó Đô đốc Zhang Xusan
thuộc Hải quân TC tuyên bố: “đã đến
lúc
Trung Hoa cần thay đổi
chiến lược biển
và
cố gắng nhiều
hơn để tìm nguồn
lợi dầu hỏa
và
khí
đốt trong Biển Đông.” [7]
Điều quan tâm này của TC đã có từ lâu và đã chứng tỏ qua việc TC mang dàn khoan
đến khu vực đảo Phú Lâm và Macclesfield Bank trước khi xảy ra cuộc xung đột [3].
Và sau khi chiếm đoạt HS, tháng
6/1974, TC đã bắt đầu khoan thăm dò trong khu vực này, nhưng cho đến nay vẫn
chưa thấy công bố kết quả [8].
3.- Vị
trí
chiến lược và
gia tăng hoạt động của
Hải quân
Nga Sô
trong vùng
Biển Đông
và
Ấn Độ Dương.
••• Tài liệu mật nghiên cứu về
Biển Đông của BNG/HK tháng 8/1956 đã viết như sau: “Mặc dù kích
thước nhỏ và
tính hữu dụng
rất hạn chế, vị trí chiến lược
của các đảo này
và sự
nhạy cảm của chủ
nghĩa dân tộc của các bên
tranh chấp, rất có
thể là những nhóm
đảo này thỉnh thoảng
sẽ tiếp tục thu hút
sự chú ý
của quốc tế, và
chừng nào chúng còn được thăm
viếng hay được canh phòng bởi các
bên tranh dành nhau, vẫn còn
khả năng có thể xảy ra
xung đột vũ trang.” [13]
Biển Đông bao phủ một khu vực
rộng đến 3,5 triệu km2, nằm giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương và là gạch nối
quan trọng giữa các lục địa Á Châu, Âu Châu, Phi Châu và Úc Châu.
Chiếm đoạt Hoàng Sa và Trường Sa
sẽ kiểm soát hải trình vùng phía bắc Biển Đông và hải trình nối liền Đông Nam Á
với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Sự phát triển kinh tế vượt bực của các nước trong vùng Biển Đông đã làm gia
tăng số lượng hàng hóa, nguyên liệu và nhiên liệu xuất, nhập cảng. Do đó việc sử
dụng thương thuyền để làm phương tiện chuyên chở cũng tăng theo.
Điều này đã biến hải trình ngang qua Biển Đông trở thành một trong những hải
trình bận rộn nhất trên thế giới (đứng hàng thứ 2). Mỗi năm có hơn ½ hạm đội
thương thuyền trên thế giới đi ngang qua eo Malacca vào Biển Đông (khoảng
50,000 thương thuyền).
Hàng năm, tổng số lượng hàng hoá di chuyển ngang Biển Đông có giá trị lên đến
5.300 tỷ đô la, trong đó 1.200 tỷ đô la hàng hóa trao đổi với HK và 4.100 tỷ đô
la với các nước khác.
Ngoài ra do nhu cầu gia tăng tiêu
thụ nhiên liệu, khoảng 80% số lượng dầu thô nhập cảng vào TC, Nhật, Đài Loan và
Nam Hàn cũng đi ngang qua khu vực này.
Những dẫn chứng kể trên cho thấy
sự phát triển kinh tế của TC, các quốc gia trong vùng Biển Đông và vùng Đông
Bắc Á Châu lệ thuộc rất nhiều vào sự an toàn và tự do thông thương của thủy
trình huyết mạch này. [8]
Sự kiện Nga quan tâm đến vị trí chiến lược của Biển Đông qua việc gởi hạm đội Thái
Bình Dương tăng cường hoạt động trong khu vực Biển Đông và Ấn Độ Dương đã khiến
giới truyền thông TC thường xuyên chỉ trích là để “đi
tìm ưu thế về hải lực” và là một sự đe dọa cho “nền
hòa
bình
và
an ninh của các
quốc gia trong vùng
Đông
Nam Á.”
Trong khi đó Nga Sô tố cáo TC “gieo
gió trong Biển Đông
như là
một phần trong kế
hoạch ác
hiểm của TC trong vùng Đông
Nam Á.” [9]
4.- Bất hòa
giữa Nga-TC, gia tăng ảnh
hưởng của Nga đối với
Cộng sản Bắc Việt
Mối bất hòa giữa TC-Nga Sô đã trở
nên trầm trọng, TC đã ngấm ngầm xem Nga là kẻ thù. Trong chuyến thăm Bắc Kinh
tháng 11-1973, lần đầu tiên phái đoàn báo chí tháp tùng Kissinger đã được hướng
dẫn đi thăm các hầm trú ẩn tránh bom (mỗi
hầm có thể chứa đến 2.500 người) và được các giới chức TC cho biết là họ
chuẩn bị để chống lại kẻ thù và kẻ thù này là Nga (107888 ngày 12/11/1973 BNG gởi TĐS/SG).
Và bắt đầu lộ diện qua việc TC trục xuất nhân viên Nga ở Bắc Kinh. Ngược lại, Nga
Sô có ý định cô lập và kiềm chế TC cũng như cố gắng dành lấy ưu thế đối với Cộng
sản Bắc Việt (CSBV).
Trong khi đó mối giao hảo giữa TC
và CSBV bắt đầu rạn nứt qua việc TC lo ngại CSBV gia tăng ảnh hưởng đối với Cao
Miên và Lào, sự bất đồng gìữa hai nước về các căn cứ HK trên đất Thái.
Ngoài ra CSBV còn đứng về phía Nga Sô trong các vấn đề quốc tế như Nga Sô xâm lăng
Tiệp Khắc năm 1968, đàn áp cộng sản Sudan năm 1971, chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan,
khủng hoảng Trung Đông.
Báo Nhân Dân ra ngày 20 tháng 11-1973
đã gián tiếp công kích Bắc Kinh qua bài bình luận chỉ trích nặng nề lời tuyên
bố của Thủ Tướng Nhật Tanaka khi ông cho là “lực lượng HK đảm bảo ổn định và an
ninh ở Á Châu”, trong khi đó lại cố ý bỏ qua đoạn ông Tanaka ám chỉ là TC ủng
hộ hiệp ước quân sự Hoa Kỳ-Nhật Bản [14].
Hơn ai hết, Hoa Kỳ đã hiểu rõ điều này, vì thế trong bản tin nội bộ ngày 23 tháng
3-1974 CIA cho là: “Moscow cũng có thể lo ngại việc chiếm đoạt
quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc là bằng chứng
của một sự thỏa thuận
giữa Peking
và Washington liên quan đến
khu vực.” (Central Intelligence Bulletin số 308 ngày 23-03-1974).
Sau cùng, TC lo ngại CSBV sẽ không giữ mãi sự im lặng trước câu hỏi về vấn đề
chủ quyền trên các hải đảo và nếu trong tương lai CSBV thôn tính VNCH, lợi thế
của Nga sẽ làm trở ngại cho các hoạt động quân sự, kinh tế và thương mại của TC
trong vùng Biển Đông. Vì thế, chủ yếu của TC là chống lại việc có thể trong
tương lai CSBV sẽ chiếm đóng HS đồng thời để ngăn chận việc Nga sử dụng các hải
đảo này như là cơ sở hỗ trợ cho hạm đội Nga hoạt động trong khu vực nối liền
Biển Đông và Ấn Độ Dương (đây là điều
mà
Nga Sô
mong đợi sẽ được
nhà
cầm quyền Hà Nội
dàn
xếp như là sự
trả ơn).
5.- Tranh chấp
nội bộ Trung Cộng
Trong buổi họp tại Bộ Quốc phòng
(BQP) ngày 01/02/1974 có mặt Henry Kissinger Ngoại trưởng kiêm Cố vấn Hội đồng An
ninh Quốc gia (HĐANQG), James Schlesinger Bộ trưởng BQP, Brent Scowcroft Phụ tá
Cố vấn HĐANQG.
Khi Schlesinger đề cập đến việc Sullivan, Đại sứ HK ở Phi Luật Tân cho là Hoa
Kỳ bắt buộc có trách nhiệm đối với Phi trong quần đảo Trường Sa và đề nghị Kissinger
tiếp xúc TC, Kissinger trả lời là “TC đang
có
vấn đề nội
bộ, nhưng họ
đã
phản ứng một
cách
nhanh chóng.”
Trong câu hỏi tiếp theo của
Schlesinger về HS, Kissinger cho là: “tại
TC đang xảy ra tranh luận
trong nội bộ. Hoặc là cánh tả
hay
chính Chu ân Lai đã chủ
trương xâm chiếm
Hoàng
Sa để cho thấy là ông ta cảnh giác chống lại chủ nghĩa đế quốc.”
[15]
Báo Deutsche Zeitung của Đức trong ngày 25/01/1974 viết về trận hải chiến Hoàng
Sa: “cũng có thể là Bắc Kinh cần có một sự
thắng lợi
về mặt
quân sự để lấy lại sự tự tin của quân
đội trong cấp
lãnh đạo trung ương, tiếp
theo cuộc cải tổ lớn tại các bộ
tư lệnh quân khu.
Điều này chắc chắn là một cuộc
hành
quân
mà Mao và Chu đã
giám
sát” [16]
6.-Hoạt động củng cố
chủ quyền về phía VNCH
- Tháng 8/1973, HQ/ VNCH mở cuộc
hành quân đổ bộ chiếm đóng đảo Nam Yết. Lần đầu tiên trong lịch sử, chánh
quyền VNCH đã chánh thức thiết lập sự hiện diện thường trực của Việt Nam trong
quần đảo Trường Sa [17].
- 12/08/1973, từ Đà Nẵng một toán
chuyên viên Việt-Nhật đã được Tuần dương hạm Trần Quang Khải HQ 2 đưa ra HS
nghiên cứu về phốt phát. Phái đoàn trở về Đà Nẵng ngày 22 tháng 8/1973 [18].
- 06/09/1973, VNCH xáp nhập quần
đảo TS vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
- 03/10/1973, một chiến hạm của hải
quân rời Đà Nẵng chở theo toán chuyên viên của Tiểu đoàn 8 Công binh Kiến tạo
ra HS với nhiệm vụ thám sát địa điểm thích hợp để xây cầu tàu trên đảo Hoàng Sa
và tái dựng lại bia chủ quyền trên đảo Cam Tuyền.
Chiến hạm trở lại Đà Nẵng ngày 5 tháng 10 sau khi hoàn tất công tác [19].
Qua các sự kiện
trên, Đại sứ Martin nhận xét: “… Chánh phủ
Việt Nam gần đây đã có vài biện
pháp
để tái xác nhận
chủ quyền trên hai quần
đảo TS và HS. Các hành động
này
hình
như là một
phần của kế
hoạch lâu dài đã được
chánh phủ VN phối
hợp để cũng
cố vị thế
VN trong việc sửa
soạn cho một quyết
định có thể
xảy ra. Ngoài ra gần
đây,
chánh phủ VN đã gia tăng
sự quan tâm trên các quần
đảo này vì một
số viên chức
hy vọng vào tiềm
năng tài nguyên phốt
phát
và
dầu hỏa có thể,
trong tương lai, mang đến
sự tiếp sức
cần thiết cho nền
kinh tế đang gặp
khó
khăn của VN.
Hành động
của VN cũng có thể
là
phản ứng trước
sự kiện gần
đây
Đài
Loan đã
tái
xác
nhận chủ quyền
của họ trên quần
đảo TS.” [19]
Các hoạt động liên
tục xác
nhận chủ quyền ở
TS và
ý định cũng
cố và
khai thác
HS của chánh
quyền VNCH cũng là
lý
do khiến TC cấp tốc thi hành kế hoạch
xâm
chiếm HS (chỉ tiếc một điều là đến lúc chánh phủ
VNCH bắt đầu lưu ý đến HS thì đã quá muộn !!!).
7.-
Thái độ của Hoa Kỳ
- Mùa hè năm 1951, TC đã đưa một số người thuộc lực lượng an ninh công
cộng chiếm cứ 3 đảo trong nhóm Tuyên Đức, và bắt đầu khởi sự thiết lập trạm truyền
tin, trạm thời tiết và doanh trại. (CIA-RDP82-00457R009200010010-2
ngày 1 tháng 11-1951).
- Từ tháng 8/1955, phi cơ không tuần của HK ghi nhận TC bắt đầu đưa người lên
đảo Phú Lâm và xây dựng cơ sở, tháng 1/1956, TC chánh thức chiếm cứ đảo Phú
Lâm.
(theo tài liệu của Cincpac Command
History năm 1973 “TC bắt đầu chiếm đóng phía Bắc quần đảo HS năm 1955 khi 250 thường dân được đưa lên đảo
Phú Lâm để khai thác phân chim.”)
- Tháng 4/1956, Pháp hoàn tất triệt thoái lực lượng về nước nhưng
còn duy trì trên đảo HS 6 người Pháp và một vài người Việt phụ trách điều hành
đài khí tượng và trạm truyền tin.
Lợi dụng cơ hội này TC đã cho một nhóm người đổ bộ lên đảo Cam Tuyền.
Ngoại trưởng VNCH Vũ Văn Mẫu nhận
được báo cáo đã lập tức thông báo cho tòa Đại sứ HK và tin này đã được chuyển
về Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John F Dulles
nhận định đây là một trường hợp quan trọng và đã có những buổi họp bàn về phương
thức hành động. Đồng thời lập tức phái “… một
phân đội
gồm 2 khu trục hạm và
phi cơ
không thám
đến tận nơi
để mở cuộc
thám sát
trên biển,
trên không và trên bộ đảo
Cam Tuyền
trong ngày 12 và 13 tháng 6.
Không tìm thấy
kết quả qua các cuộc
thám sát
này.” [20]
- Tháng 8/1956, trong bài nghiên
cứu mật về Biển Đông, BNG HK đã xác định: “Vị thế quốc tế của các quần đảo này chưa bao giờ được giải quyết. Hoa Kỳ không đưa ra yêu
sách chủ
quyền của riêng mình trong khu vực, cũng như
không đưa
ra bất cứ
quyết định chính thức nào
về giá trị của các yêu sách chủ
quyền riêng
biệt của
các
nước khác.” [13]
- 28/07/1959 Wang Bingnan Đại sứ TC tại Ba Lan đã phản đối với Đại sứ
HK Jacob Beam tại Ba Lan về việc chiến hạm và phi cơ HK trong tháng 6 và 7/1959
đã xâm phạm lãnh hải TC 11 lần trong khu vực quần đảo HS.
Đại sứ Beam đã phủ nhận chủ quyền
của TC trên quần đảo HS và phát biểu là Hải quân HK hoạt động trong hải phận
quốc tế và thi hành công tác tự vệ. [21]
- 03/08/1959 trong điện văn gởi cho Đại sứ
Beam, Robert Murphy Phụ tá Thứ trưởng BNG/ HK Đặc trách về Chánh trị đã xác
nhận là HQ/HK hoạt động ngoài hải phận quốc tế và tiêu chuẩn đặt ra cho công
tác tuần tiễu của HQ/HK là ngoài khu vực 12 hải lý dựa trên đường thẳng căn bản
mà TC đã vẽ ra, nhưng phi cơ HK có thực hiện các chuyến bay do thám ngang qua
HS. Những
chuyến bay tuần thám thường xuyên này đã được HK thực hiện trong nhiều tháng mà
không gặp phải sự phản đối nào.
Việc TC tuyên bố chủ quyền trên quần đảo không có giá trị pháp lý
[21].
Các
dẫn chứng trên đã cho thấy lập trường và thái độ cứng rắn qua các
hoạt động ngoại giao và
quân sự của HK đối với TC trong quần đảo HS đã được thể hiện một cách rõ rệt và dứt khoát cho đến cuối thập niên 60.
Tuy nhiên sang thập niên 70 thái
độ HK đối với TC đã bắt đầu chuyển hướng qua các ghi nhận sau:
- Tháng 7/1971, Henry Kissinger bí mật sang TC.
- Tháng 9/1971, bài nghiên cứu về Biển Đông của Bộ Ngoại giao HK, ngay sau khi
Phi Luật Tân chiếm cứ vài đảo nhỏ ở Trường Sa năm 1971 được đặt tên là “BIỂN
ĐÔNG: Dành cho bất cứ ai ”.
Bài này còn cho Biển Đông “là
khu vực
gây rắc
rối … và
có tiềm
năng là thùng
thuốc súng.”
Và cũng tương tự như các bài
nghiên cứu từ trước, vẫn xác nhận là “HK không đứng về phía nào trước các tuyên bố chủ quyền trái ngược nhau.” Ngoài ra còn khuyên “công ty địa vật lý và dầu hỏa HK nên tránh hoạt động trong khu vực tranh chấp. Chánh phủ cũng thông báo cho các công ty này là chánh phủ HK không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ tàu nào bị bắt giữ.”
- Tháng 10/1971, Kissinger công
khai thăm TC.
- 25/10/1971, Đài Loan bị hất
chân ra khỏi Liên hiệp quốc.
- Tháng 2/1972, Tổng thống Nixon
thăm TC.
- 12/04/1972, tại văn phòng đại
diện TC ở Liên hiệp quốc, New York, Huang Hua Đại sứ TC tại LHQ, trước sự hiện
diện của Henry Kissinger đã đọc bản thông điệp có điểm nhấn mạnh đến HS như
sau: “Phía
TC ghi nhận sự
cam kết trong bản văn
mà TC đã
nhận được ngày 3/04/1972 từ
HK là
chiến hạm và phi cơ
HK sẽ không vượt
quá
giới hạn 12 hải
lý
trong quần đảo
HS của Trung Hoa (China’s Hsi Sha islands).
Đồng thời phía TC tái xác nhận
quần đảo HS là lãnh thổ
không
thể chối cãi của
TC và
chiều rộng phần
lãnh
hải của TC đã được
quy định là 12 hải
lý
và
TC đòi
hỏi các nước
tôn
trọng điều
này.”
[22]
- 22/6/1972, Kissinger gặp Chu Ân Lai ở Bắc Kinh, trong dịp này Kissinger phát
biểu: “HK
đã công nhận việc
TC phản đối chiến
hạm và phi cơ
HK vi phạm quần
đảo HS và HK đã tiến
hành
việc giới hạn
vào
ngày
12 tháng
3.”
- 27/01/1973, hiệp uớc Paris ra đời, chấm dứt sự can dự trực tiếp về
quân sự của HK trong cuộc chiến VN
- Từ ngày 10 đến 14 tháng 11/1973, trong chức vụ Ngoại trưởng, Henry Kissinger
thăm TC và cho biết ý định muốn bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Tài liệu lưu trữ không thấy đề
cập đến quần đảo HS nhưng có một số câu hỏi do Thủ tướng Chu ân Lai đặt ra với
NT Kissinger có liên quan đến khả năng hoạt động của phản lực cơ F-5 mà HK đang
trang bị cho Không quân Đài Loan. (Không
quân VNCH cũng đang sử dụng loại phi cơ này) [22]
- 05/12/1973, để trả lời câu hỏi của nhà viết báo độc lập (freelance journalist) Mike Morrow về
lập trường của chánh phủ HK trong việc TC tuyên bố chủ quyền trên khu vực rộng
lớn của Biển Đông, đặc biệt là vùng biển chung quanh Trường Sa, Tòa Đại sứ/HK
tại Singapore đã xin chỉ thị của BNG/HK [23].
- 12/12/1973, BNG/HK gởi điện văn đến các TĐS Sài Gòn, Singapore, Manila,
Taipei và Văn phòng Liên lạc HK ở Bắc Kinh xác nhận “lập trường của HK trước cũng như sau vẫn luôn là không đứng về bên nào trong các tranh chấp về chủ quyền trên các quần đảo.”
[24]
- 17/01/1974, Phát ngôn viên BNG/ HK tuyên
bố HK không có chủ quyền trên các hải đảo và mặt khác không dính líu; vấn đề này do các quốc gia tuyên bố chủ quyền tự giải quyết với nhau [25].
Trong cùng ngày, tại Sài Gòn, lo ngại trước sự việc các chiến hạm VNCH và TC được tăng phái
đến nhóm Nguyệt Thiềm có thể đưa đến đụng độ về quân sự. Đại sứ Martin nhận chỉ
thị từ BNG/HK, đã gặp và nhấn mạnh với Ngoại trưởng Vương Văn Bắc 4 điểm sau:
a.- sự cần thiết làm
dịu tình hình
b.- tránh bất cứ
hành động nào có thể đưa đến sự leo thang.
c.- lập tức cố gắng
đưa sự xung đột qua lãnh vực ngoại giao như Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.
d.- dù trong bất
cứ trường hợp
nào
quân
đội Hoa Kỳ
sẽ không can dự
vào
[26].
(điểm cần ghi nhận ở đây là trong ngày
17/1, Tổng thống Thiệu đang tiếp tục công tác ủy lạo chiến sĩ nhân dịp tết
Nguyên đán tại Quân đoàn II, không rõ Ngoại trưởng Bắc có báo cáo cho ông về
lập trường này của HK hay không?)
- 24/01/1974, Kissinger nhấn mạnh
trong điện thư gởi ĐS Martin: “Tổng thống
Thiệu biết rất rõ là HK không có lập
trường trên
các
khía
cạnh pháp
lý
của cuộc tranh chấp
và
HK tin tưởng là
không
nên
dùng
lực lượng quân sự
để giải quyết vấn
đề. Ông cũng nhận thức
tính
cách
cấp bách
của việc tránh
một cuộc đối đầu
quân
sự của các
cường quốc chính
yếu trong khu vực này. Trong bối
cảnh này,
sự hỗ trợ chúng ta có
thể dành
cho chính
phủ VNCH đối với quần
đảo HS nhất thiết phải
được giới hạn.” [26a ]
Lập trường này cũng đã được xác định trong ngày 7 tháng 2, khi Đại sứ VNCH Trần
Kim Phượng yêu cầu Phụ tá Ngoại trưởng HK Kenneth Rush giải thích lý do tại sao
TC cưỡng chiếm Hoàng Sa, ông trả lời: “HK không có lập
trường về chủ
quyền trên các lãnh thổ
này khi mà chúng không liên quan đến lợi
ích quốc
gia và
an ninh cho HK. Điều
gì
thúc
đẩy các nước
ra tay hành
động trong tranh chấp
này
là
do các
nước liên hệ
giải thích.” [27]
Bài viết của NT Vương Văn Bắc cũng đã có những nhận xét tương tự: “Hoa
Kỳ cho hay rằng họ
không
muốn dính dáng vào một
vụ tranh chấp có nguồn
gốc khá phức
tạp trong lịch sử;
họ cầu mong đôi bên có được
sự dàn xếp
hòa
bình.
Nói
rõ
hơn, Hoa Kỳ không muốn
can thiệp vào vụ
nầy, không muốn
đứng hẳn vào một
bên
để chống lại
bên
kia.” [6]
Điểm quan trọng trong kế hoạch
chiếm đoạt
HS là TC phải đoán chắc
được thái độ
và lập
trường của HK. Do đó sau khi vững tâm
là HK sẽ
đứng ngoài trước các
sự xung đột về
tranh chấp
chủ quyền trên các hải đảo
trong vùng
Biển Đông, TC đã tiến
hành kế
hoạch này.
8.- Lực
lượng phòng
thủ đảo Hoàng Sa
Tình trạng phòng thủ yếu kém do
sự thiếu quan tâm của VNCH đã là cơ hội tốt để TC lợi dụng dò xét tường tận hệ
thống phòng thủ cùng địa thế trên tất cả các đảo trong nhóm Nguyệt Thiềm, nhất
là đảo duy nhất có lực lượng quân sự của VNCH trú đóng là đảo Hoàng Sa.
Đặc san “Hoàng Sa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa” do Bộ Dân vận và Chiêu hồi phát hành
tháng 3 năm 1974, trong phần I Địa Dư xác nhận: “Để
ngăn chận sự lấn chiếm thêm của ngoại bang, ta đã phái quân đội tới canh gác tại những đảo thuộc nhóm Nguyệt Thiềm. Việc trú
đóng có tính cách tượng trưng vì trong 5 đảo
chính
của nhóm đảo
này
(Hoàng
Sa, Cam tuyền,
Duy Mộng,
Quang Hòa, Vĩnh Lạc) chỉ có Hoàng Sa là thường xuyên có một Trung Đội Địa Phương Quân, quân số không quá 30 người.”
a.- Quân số: trong
ngày xảy ra trận hải chiến, trên đảo HS có một Trung đội Địa phương quân (ĐPQ)
gồm 25 người trực thuộc Tiểu khu Quảng Nam do một Trung úy chỉ huy và toán nhân
viên dân sự 4 người điều hành đài khí tượng.
Ngoài ra còn có 5 quân nhân thuộc
phái đoàn Công binh công tác HS và một viên chức dân sự Hoa Kỳ thuộc toà Tổng Lãnh
sự Đà Nẵng.
b.- Trang bị vũ khí:
hầu hết ĐPQ được trang bị vũ khí cá nhân M16 .
Theo Chuẩn úy Nguyễn Văn Đức người từng giữ chức vụ đảo trưởng vào tháng 10/1969
thì toán ĐPQ còn có hai khẩu đại liên 50 ly (trích
từ “Hoàng Sa trong ký ức một đảo trưởng” của Thế Anh, báo Tuổi Trẻ ngày 8 tháng
9/2009).
c.- Nhiệm kỳ toán ĐPQ và
nhân viên đài khí tượng trên đảo:
••• Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ-Thoại, Tư
lệnh Vùng 1 Duyên hải (TL/V1DH): “Chúng tôi có một
Trung đội ĐPQ
và
6 nhân
viên
dân sự phục vụ
cho đài
khí
tượng trên đảo.
Họ được thay thế
mỗi ba tháng.” [32]
••• HQ Đại úy Trần Kim Diệp: “Vì
là thành phần bị
đi đày nên trong thời
gian từ 3 đến 6 tháng ở
đảo, họ không hề
có
tôn
ti…” [29]
••• “Ông Nhự là một trong số ít
những người đi ra Hoàng Sa đến 3 nhiệm kỳ (9 tháng, từ 1968-1971). (Báo Lao Động ngày 24/04/2009)
••• “…Mỗi kỳ ở đảo ba tháng. Khi ra, họ mang gạo, đậu xanh,
nếp, khoai tây đóng thành thùng.”(HS một thời tuổi trẻ - Tiền
Phong 09/2009)
••• Ông Võ Như Dân nhớ lại: “...Trạm
quan trắc trên đảo
có
5 nhân viên, gồm 3 quan trắc
viên,
1 vô
tuyến điện
và
1 phục vụ. Mỗi
nhiệm kỳ công tác 3 tháng.”
(Ký ức Hoàng Sa _Tuổi
Trẻ 23/12/2007)
••• HQ Thiếu tá Phạm Ngọc Lộ Giám
đốc TTHQ/LĐ/Biển: “thường thường
thì
cứ ba tháng có một
chuyến tiếp tế
cho Hoàng
Sa bằng tàu HQ loại
400, có
thể là tiếp
tế nước, thực
phẩm, vũ khí hay thay đổi
nhân
viên.
Trong ba tháng
mình
không
có
ra đó
thì
mình
hầu như không biết
tình
hình
ngoài
đó
như thế nào.”
••• Trần Thế Đức: “… chiến
hạm HQ 16 có sứ
mạng vận chuyển
một số quân nhân (một
Trung đội) và bốn
nhân
viên
dân
chính
thuộc nha khí tượng ra thay thế
các
quân
nhân
và
công
chức đã trấn
giữ tại đảo
này
từ ba tháng trước.
Đây
là
những công tác bình thường
của hải quân VNCH.”
Sống
ở ngoài này hoàn toàn lệ
thuộc vào sự
tiếp tế từ
đất liền. Lúc đi,
phải chuẩn bị
thức ăn đầy
đủ trong ba tháng…Khi trao trả
cho Việt Nam, tàu cứ
ba tháng
ra một lần.
Còn các binh sĩ
khác,
cũng như nhân viên khí tượng,
ngoài
quần áo đem
theo, phải đem
theo đồ ăn đủ
trong ba tháng.
Từ đây tới
ba tháng
sau không
hề có chuyến
tàu
nào
từ đất liền
chạy ra, trừ phi có chuyện
khẩn cấp.”
[28]
••• Vietnamnet: “…Cứ 3 tháng 1 lần tàu luân phiên đưa lính ra đảo để bảo vệ.” [31]
Các bài viết trên
cho thấy là
các chuyến công tác
định kỳ
thay thế Trung đội Địa phương quân và
nhân viên
đài khí tượng trên đảo HS đã
được thực
hiện mỗi 3 tháng
một lần, đôi khi vì
lý do thời tiết có
thể kéo dài
thêm.
d.- Nhận xét về toán phòng thủ:
••• Trần Thế Đức
trong bài viết “Hoàng Sa qua những nhân chứng”:
•“…. Người Pháp canh phòng đảo rất kỹ.
Họ dùng xà-lúp đi tuần quanh các đảo luôn luôn. Chân cầu tàu bây giờ còn vết
tích căn nhà để xà lúp. Họ xua đuổi các tàu bè lại gần đảo. Đuổi mà không đi là
họ bắn ngay.
Về sau, một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt-Nam Cộng Hòa có nhiệm vụ
bảo vệ các đảo còn lại. Sau đó số quân đóng trên đảo Hoàng-sa (Pattle),
Hữu-nhật (Cam tuyền, Robert), Quang-ảnh (Vĩnh-lạc, Money) Quang-hòa (Duncan),
Duy mộng (Drummond) và các đảo khác rút xuống còn một đại đội thuộc tiểu đoàn
42/162… Thủy Quân Lục Chiến có đầy đủ phương tiện (ca-nô, xăng nhớt…) nên họ
cũng đi tuần, canh phòng thường xuyên.
•“….Ngày 5-10-1959, tỉnh đoàn Bảo-an
thuộc tỉnh Quảng-nam có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quần đảo. Tỉnh đoàn cử 43
Bảo-an viên ra thay đại đội Thủy Quân Lục Chiến giữ các đảo trên. Tuy vậy, trên
đảo Hoàng-sa (Pattle) vẫn còn một trung đội Thủy Quân Lục Chiến gồm 30 người. (LTG:
toán TQLC rút khỏi HS vào cuối năm 1963.)
Binh sĩ Bảo-an sau này đổi tên thành Địa phương quân, thuộc tiểu khu
Quảng-nam. Địa phương quân phương tiện eo hẹp, không có ca-nô đi kiểm soát các
đảo, nên coi như chỉ trấn đóng trên đảo Hoàng-sa (Pattle) mà thôi.
Về sau, số quân giảm xuống, chỉ còn một trung đội, do một trung úy hoặc
thiếu úy chỉ huy. Người mới ra đảo Hoàng-sa (Pattle) nhìn vào tình trạng quân
sự đó thật là lo ngại. Không có phương tiện kiếm soát các đảo khác nên không
biết kẻ lạ làm những chuyện gì đó trên đảo. Đảo lại không có phương tiện truyền
tin với các tàu (cờ, đèn hiệu…) nên muốn ra lệnh cho các tàu cũng không được….
Viên sĩ quan địa phương quân không rành về mặt biển, không biết các
loại tàu.”
•“…Những gắp đạn M16 trên thắt lưng
thật là nặng nề. Thôi! Gửi lại vùng đất chiến tranh, chỉ đem tượng trưng vài
gắp mà thôi. Còn khẩu súng nữa. Có lẽ còn lâu lắm, khi trở về đất liền nó mới
được dùng tới. Trên biển cả mênh mông này chỉ quí nhất là chất nổ: nào lựu đạn,
béta, plastic. Họ đem theo càng nhiều càng tốt. Đó là nguồn cung cấp thực phẩm
trong những ngày sống lênh đênh trên hải đảo.
Nhóm người trên tàu ấy gồm một trung-đội địa-phương quân thuộc tiểu khu
Quảng-nam, dưới quyền chỉ-huy của một Trung-úy trung đội trưởng. Họ phần lớn là
những người bị trừng phạt, gom góp lại trong tiểu khu, không phải là một đơn vị
thuần nhất. Cuộc sống quạnh hiu giữa trời, mây, nước sẽ làm họ nghĩ về nội tâm
mà ăn năn, sửa đổi?” [28]
••• HQ Đại tá Hà Văn Ngạc: “Xét về sự phòng thủ, so sánh với đảo Thái
Bình trong vùng Trường Sa thì thế bố trí trên đảo Hoàng Sa của VNCH đã thua kém
rất xa, và không thể đủ sức để cố-thủ chống lại một cuộc cường-kích thủy-bộ. Trên
đảo không có công sự nặng, chỉ có khoảng một trung-đội địa-phương-quân với vũ
khí cá nhân và một vài quan sát viên khí tượng.” [4]
••• HQ Đại úy Trần Kim
Diệp/TP/Tình Báo/BTL/HQ/V1DH: “…Riêng
về đội quân trấn đảo, tiếng là “trấn thủ” nhưng thực ra là đi tù. Họ gồm 22
quân nhân diện vô kỹ luật thuộc những Đại đội ĐPQ của Quân khu 1, do 1 viên Sĩ-Quan
cấp bậc Tr/úy cũng vô kỹ-luật được chỉ định làm trưởng toán (đây là điều sai
lầm vô cùng to tát của các cấp lãnh đạo đã xem nhẹ và để mất quần đảo qúy báo
này). Vì là thành phần bị đi đày nên trong thời gian từ 3 đến 6 tháng ở đảo, họ
không hề có tôn ti, cấp bậc mà sống theo “luật của kẻ mạnh” và tất cả vũ khí
đều phải cất vào kho để tránh trường hợp họ dùng để thanh toán nhau.” [29]
••• Thiếu tá Phạm Văn
Hồng: “Với quân số ít oi và vũ khí
cũng không có gì mạnh mẽ lắm, mỗi người chỉ có vài gắp đạn nên bắn mấy lần là
hết đạn.” [30]
“Mặt khác anh em Ðịa Phương Quân Quảng Nam này gần như là những người
“bị đày” ra đảo, vì hầu hết họ là những quân nhân vô kỷ luật, bị phạt nhiều
ngày, gom từ nhiều đơn vị. Nhưng ra đây binh sĩ được an toàn hơn là ở trong đất
liền đi hành quân, hầu như hết thời gian là để vui chơi, ăn uống và ngủ nghê
“dưỡng sức.” Chính Trung Úy Phạm Hy cũng thú nhận mình là một sĩ quan bị kỷ
luật nên mới phải đổi ra đây. Cũng để tránh những việc không hay xẩy ra cho đám
lính “ba gai,” giá súng được ông trung đội trưởng khóa kỹ.”
(Huy Phương ‘Nhân tháng giêng, kể chuyện Hoàng Sa, Nhật báo Người Việt 20
tháng 1-2012)
••• Cựu ĐPQ Phạm Khôi: ông cùng đồng đội xuống tàu tại quân cảng
Đà Nẵng để ra Hoàng Sa vào đêm 23 tháng Chạp năm 1969: “... Nói tiếng là bảo
vệ, nhưng ra đảo Hoàng Sa anh em lính tụi tui ban ngày đi câu, ban đêm ngủ. Đảo
Hoàng sa thời đó yên bình lắm…” [31]
••• Gerald Kosh: “…toán Địa phương quân trên đảo HS đã được
chỉ huy rất yếu kém, không cố gắng để sự phòng thủ có hiệu quả. Sau khi họ đầu
hàng, lính TC đã tỏ vẽ ngạc nhiên khi biết là toán lính ĐPQ chỉ có phân nữa
được trang bị vũ khí cá nhân.” [2]
Sự lơ là trong việc phòng thủ đảo Hoàng Sa và bỏ ngõ các đảo còn lại trong nhóm Nguyệt Thiềm đã là cơ hội hiếm qúy cho TC thực hiện giấc mộng chiếm đoạt trọn vẹn quần đảo Hoàng Sa.
NHIỆM
VỤ CỦA TUẦN DƯƠNG
HẠM LÝ THƯỜNG KIỆT HQ 16
Sự hiện diện của HQ 16 trong chuyến công tác đặc biệt ra HS là một sự bất ngờ
đối với TC và đã làm thay đổi dự tính của chúng.
Việc xác nhận mục đích chuyến công tác của HQ 16 cũng là điểm rất quan trọng vì
nó xác định rõ rệt ý định của TC.
-
Đề đốc Trần Văn Chơn Tư lệnh Hải
quân: “… nhân viên
dân sự Hoa Kỳ cùng đi
với phái đoàn Công binh của
Quân
khu1/Quân đoàn 1 để
nghiên
cứu xây cất
phi trường tại
Hoàng
Sa.” [4]
-
Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ
Thoại TL/HQ/V1DH: “… Tôi gởi
chiến hạm ra ngoài đó chỉ
để thăm viếng.
Ngày hôm đó
tôi
gởi tàu đi
vì Tướng Trưởng dự
định một ngày nào ra thăm
đảo. Ông không biết là ông có thể
đáp
máy bay xuống đảo
được hay không. Tôi muốn
chắc chắn là điều
này
có
thể được, bởi
vì
tôi
không nghĩ là bất
cứ máy bay nào cũng có thể
đáp xuống đảo
Hoàng
Sa. Nhưng tôi vẫn gởi
tàu
ra ngoài
đó
để xem chúng tôi có thể
xây
một phi đạo hay một
cái
gì
giống như vậy.”
[32]
Ngoài ra ông đã xác định về trường hợp của G.Kosh:
“Ngày hôm đó, Tướng
Trưởng muốn biết
là
chúng
tôi
có
thể xây một
phi đạo ngoài đó, hay cái gì đó giống
như vậy. Vì thế,
ông yêu cầu Phòng 3 (phòng hành quân) thuộc
BTL/QĐ1gởi người.
Và
rồi đã xảy
ra chuyện Trưởng
phòng
3 gọi viên chức đối
tác
của mình là ông Tổng
Lãnh sự. Sau đó ông Tổng
Lãnh sự hỏi anh ấy
có
muốn đi ra HS cùng với
vài
Sĩ quan của phòng 3. Và
rồi ông Tổng Lãnh sự
gởi anh ta đi theo để
chụp hình.
Tất
cả là như
vậy, anh ta đi chỉ
để cho vui.
Anh ta đến
gặp tôi, tôi quên tên anh ấy.
Tôi
không
biết là chúng tôi sẽ
có
một trận chiến
hay điều gì giống
như vậy. Bởi
vì chiến hạm được
dự trù trở
về ngày hôm sau.
Tôi biết
là
sự hiện diện
của anh ta ở ngoài đó đã làm rắc
rối cho nhiều người.
Nhưng chuyện này đã không được
dự tính chút nào. Anh ta chỉ
ra ngoài
đó
cho vui, không
hẵn đúng là để
vui, nhưng để
thăm đảo.”
[Tuy nhiên trong ‘Can
trường trong chiến bại’ ông viết khác đi:
“Vào
ngày 15 tháng 1, năm 1974, tuần
dương hạm Lý Thường
Kiệt (HQ 16), hạm trưởng
là
trung tá
Lê
văn Thự, được
lịnh của Bộ
Tư Lịnh Vùng I Duyên Hải
đưa địa phương
quân
thuộc tiểu khu Quảng
Nam và
nhân
viên
khí
tượng ra Hoàng Sa để
thay thế toán đang
ở ngoài đó đã hết
nhiệm kỳ.”] [32]
NHẬN XÉT: không tìm thấy bất cứ tài liệu nào đề cập đến
việc thay thế toán ĐPQ và nhân viên khí tượng! Nếu có, toán thay thế lên tàu và
lên đảo lúc nào? Và còn toán được thay, họ lên tàu lúc nào và làm gì trong suốt
thời gian ở trên HQ 16?
- HQ Đại tá
Phạm Mạnh Khuê Tham mưu trưởng
Hành quân/Biển: “Ngày 14/1/74 Bộ
Chỉ Huy Hành Quân Biển
chỉ thị Bộ
Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải
cho một chiến hạm
đến đảo Hoàng Sa với
nhiệm vụ quan sát tình hình đồng
thời đồng thời
đón
ông Trưởng
Ty Khí
Tượng bị trọng
bệnh về Đà Nẵng.
Tháp
tùng
theo chuyến đi
có ba Sĩ Quan và nhân viên thuộc
Bộ Tư Lệnh/Quân Đoàn I/Quân Khu I và một
nhân
viên
Tòa
Lãnh
Sự Hoa Kỳ tại
Đà
Nẵng là ông Gerald
E.Kosh.”
[4]
NHẬN XÉT
••• nếu được lịnh quan sát tình hình, HQ 16 sau khi đưa toán Công binh
lên đảo, chiến hạm phải di chuyển ngay đến các đảo trong nhóm Nguyệt Thiềm để
quan sát, ngược lại HQ 16 lại thả trôi gần đảo Cam Tuyền để chờ toán Công binh
trở lại tàu.
••• không tìm thấy bất cứ tài liệu nào liên quan đến ông Trưởng ty Khí tượng bị
trọng bệnh.
- HQ Đại
tá Hà
Văn Ngạc: “Trong khi đó việc
Hải Quân Việt Nam phát hiện
sự hiện diện
của họ chỉ
có từ khi Tuần dương
hạm HQ 16 được lệnh
đến thăm viếng
định kỳ và chở
theo phái đoàn Công binh Quân đoàn
I ra thám sát đảo để
dự trù việc thiết
lập một phi đạo
ngắn.” [4]
- HQ Trung tá Lê Văn Thự Hạm trưởng
HQ 16: “Ngày
15 tháng 1 năm 1974 tàu tôi, HQ 16, được
lệnh ra công tác đảo
Hoàng
Sa, chở theo một cố
vấn Mỹ và một
Thiếu tá Bộ binh thuộc
Quân
đoàn
1 ……. Trong khi chờ đợi
đưa Thiếu tá Bộ
binh về lại Đà Nẵng,
tôi
vận chuyển tàu rời
đảo Hoàng Sa ra biển,
thả trôi tàu gần
đảo Quang Hòa (LTG :
đúng ra là đảo Cam Tuyền). Tôi lấy
ống nhòm nhìn lên các đảo
chung quanh để ngắm
nhìn
phong cảnh và tiêu khiển
thì
giờ.” [33]
- HQ Đại úy Đào Dân: “… Sáng mai,
HQ 16 phải chở
ra HS một phái đoàn của
Bộ Tư Lệnh
Vùng
I Chiến Thuật, nhằm
khảo sát để
thiết lập một
phi trường cho C130 có thể
đáp…. Phái đoàn gồm
6 người: 1 thiếu tá trưởng
đoàn,
1 cố vấn Mỹ
mặc áo dân sự,
2 trung úy
cùng
2 trung sĩ thuộc
ngành
công binh … Buổi sáng ngày 16 tháng 1 năm
1974, chúng tôi chở 6 người
của phái đoàn lên đảo
rồi sau đó đem
xuồng về tàu… và theo dự
trù sau vài ngày, chúng tôi sẽ vào đón họ
để đưa trả
họ lại cho Bộ
Tư Lệnh Vùng 1 Chiến
Thuật” [34]
- Thiếu tá Phạm Văn Hồng: “…buổi
sáng
15-1-74 tôi
nhận lệnh thượng
cấp ra đảo Hoàng Sa để
thiết lập một
phi trường quân sự…Ngoài tôi làm
toán trưởng, còn có một
Trung úy
Liên
đoàn
8 Công
binh Kiến tạo,
một Trung úy Liên đoàn 10 Công binh Chiến
đấu, hai Hạ sĩ
quan đi theo hai Trung úy và ông Kosh, như
vậy toán chúng tôi có tất
cả 6 người đặt
chân
xuống đảo.”
[30]
- HQ Đại úy Lê Văn Thự Trung tâm trưởng Trung tâm Hành quân (TTT/TTHQ)
V1DH trong thời gian xảy ra trận hải chiến HS: “... ngày
15-1-1974, Tuần dương
hạm Lý Thường Kiệt
HQ 16 của Hải
quân VNCH khởi hành ra HS. Chiến
hạm chở theo phái đoàn Công binh của
Quân
đoàn
I, có
nhiệm vụ khảo
sát
và
nghiên
cứu để xây một
phi trường cho loại
phi cơ vận tải
cỡ nhỏ có thể
đáp
và
cất cánh…” [35]
- HQ Đại úy Trần kim Diệp: “…tôi nhận
lệnh của Phó Đề
đốc Tư lệnh
HQ/V1ZH đi công tác đảo
Hoàng
Sa. Chúng tôi trực chỉ
Hoàng Sa bằng phương
tiện Tuần dương
hạm Lý Thường
Kiệt HQ 16 với nhiệm
vụ là thám sát đảo
Hoàng
Sa để nghiên cứu
lập một phi đạo
cho vận tải cơ
C7 Caribou.” [29]
-
Ngoại Trưởng HK Henry Kissinger nói về trường hợp của G. Kosh trong
buổi gặp mặt Đại sứ TC Han Hsu tại Bộ Ngoại giao sáng ngày 23 tháng 1-1974 như
sau: “…Ông ấy
đã
có
mặt ở đó theo yêu cầu
của người Việt
Nam có
liên
quan tới một số
nhiệm vụ kỹ
thuật tạm thời,
điều này chính xác bởi
vì
chúng
tôi
nghĩ rằng đó
là một giai đoạn
yên
ổn. Ông định
chỉ ở lại
một ngày hay như
vậy, rất ngắn
gọn, sau đó ông thấy
mình
bị bắt. Không người
Mỹ nào có mặt
thường trực hoặc
ngay cả tạm thời
trên
các
quần đảo này. Đây là một
sự việc đáng tiếc.” [22]
- Đại Sứ
Martin: trong
điện thư mật gởi cho Tướng Brent Scowcroft thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia HK
(NSC- National Security Council): “ … thật
là
không
may, Chỉ huy trưởng
lực lượng hải
quân
VN vì
cố gắng tránh sự
can dự hoặc nguy hiểm
cho nhân
viên
dân
sự HK Gerald Kosh - người
đã tháp tùng toán công binh để
nghiên
cứu về việc
có
thể xây một
phi đạo ở Hoàng Sa - đã di chuyển
Kosh khỏi tàu, đưa
lên
đảo Hoàng Sa, ở
đó
Kosh được xem như
là
tránh
khỏi hiểm nguy.”
[36]
Trong cùng ngày, điện thư gởi về
BNG/HK, Martin xác nhận: “Sự
hiện diện của
anh ấy chắc chắn
không
phải ngẫu nhiên, nhưng
là
sự chấp nhận
lời mời từ
chánh phủ Việt
Nam để quan sát trên chuyến
công
tác
được xem như là tuần
tiễu thường lệ
là bằng chứng thuyết
phục cho thấy rằng
ngay cả VNCH hoặc chánh phủ
Hoa Kỳ không ai dự đoán khả
năng hành động của
Trung Cộng.” [36a]
Và trong điện thư khác ông cho
là: “Sự hiện diện của Kosh ở Hoàng Sa hoàn toàn là một tai nạn của không gian và thời gian, và chúng ta không có bất cứ điều gì để xin lỗi.”
[36b]
-
Gerald E. Kosh: “tháp
tùng HQ 16 ra HS với một
toán
đặc nhiệm HQ có ý định
thám
sát
các
đảo (đặc biệt
là
đảo Hoàng Sa) và quan sát hoạt
động của TC trong vùng.”
[37]
- Vũ Hữu San & Trần
Đỗ Cẩm:
• trang 84: “…TDH Lý Thường
Kiệt HQ 16 ra Hoàng Sa với
nhiệm vụ chính chở
phái
đoàn
Công
Binh thám sát thiết lập
phi trường, tình cờ
phát
hiện ngư thuyền
và
quân
TC trong vùng.”
• trang 36 tác giả lại viết khác: “Để
bảo vệ chủ
quyền chính đáng tại
Biển Đông, ngày 15-1-74,
BTL/ HQ VIDH ra lệnh cho HQ-16 trực
chỉ Hoàng Sa để
tăng cường cho lực
lượng trú phòng, đồng
thời dùng biện pháp ôn hòa yêu cầu
lực lượng Trung Cộng
rời khỏi lãnh hải
VNCH.”
[38]
Ngoài ra công điện thượng khẩn do DAO/Sài Gòn gởi về HK sau khi nhận báo cáo từ
TTHQ/BTL/HQ lúc 6 giờ chiều ngày 15/01 có nội dung: “Lúc 5 giờ chiều
ngày 15 tháng 1, chiến hạm
HQ 16 của
HQVN neo ở
hướng đông đảo
Cam Tuyền
cách bờ
100 m đã phát hiện
tàu TC neo gần đảo
Cam Tuyền,
cách bờ
100 m. Tàu TC là loại
tàu đánh
cá khoảng
100 tấn,
trang bị
một số antenna. Trên đảo
Cam Tuyền
có cờ
TC. HQ 16 dùng quang hiệu
yêu cầu
tàu TC đi
khỏi nhưng chúng
không trả lời.” [39]
Và theo HQ Đại úy Đào Dân diễn tả
trong bài viết của ông: “….Tôi nhận quart
trưa 1200 - 1500H. Không có việc
gì làm, chỉ theo dõi tình trạng trôi của tàu, nếu cần điều chỉnh lại chút đỉnh.
Việc đổ bộ đã hoàn tất vào buổi sáng. Hạm trưởng xuống nghỉ trưa. Các sĩ quan
phụ tá và nhân viên đi quart tụ lại nói chuyện phiếm…Bỗng tôi chú ý ở trước mặt
đảo Robert, ngang hông chiến hạm, một chiếc tàu đang lửng lơ bên cạnh đảo.
Chiếc tàu nhỏ, cỡ bằng những chiếc tàu đánh cá Ðài Loan mà tôi thường gặp trong
vùng biển cận duyên. Tôi cũng cho đây là tàu đánh cá, nhưng hơi lạ là nó vào
sát bờ quá.” [34]
Qua dẫn chứng từ các
nhân vật liên hệ trực tiếp và gián tiếp đến biến cố Hoàng Sa, thêm vào đó với
công điện sưu tầm được, đã cho thấy là chuyến
công tác của HQ 16 ra Hoàng Sa là một chuyến công tác đặc biệt, kéo dài
khoảng 4 ngày (đi và về) với nhiệm
vụ chính yếu là đưa toán Công binh lên đảo Hoàng Sa để nghiên cứu khả năng
thiết lập một phi đạo dành cho phi cơ vận tải loại nhỏ sử dụng.
Ngoài
ra còn xác nhận
một cách rõ rệt là HQ 16 tình cờ đã phát hiện tàu TC neo gần đảo Cam Tuyền, trên đảo có cờ TC; đồng
thời cho thấy một sự kiện hiển nhiên là chiến hạm đã không nhận được lệnh hoặc chỉ thị đặc biệt nào khác của BTL/VIDH từ lúc rời Đà Nẵng cho đến khi hoàn tất công tác đưa toán 7 người lên đảo HS.
Ý
ĐỒ CỦA TRUNG CỘNG
Chiếm
đoạt trọn vẹn
Hoàng Sa là ý đồ mà
Trung Cộng đã
ôm ấp từ
lâu
và
chúng chỉ chờ đợi
thời cơ thuận lợi
để soạn thảo kế
hoạch thực hiện.
1-
Công tác dọ thám và điều
nghiên
Trong bài viết này, tác giả xin
được viện dẫn những ghi nhận rất trung thực của 4 nhân chứng đã có mặt trên đảo
Hoàng Sa.
- Trần
Thế Đức: “…Người Việt vốn quí khách. Khách tới, đi ca nô hay xuồng nhỏ vào đảo là được tiếp niềm nở. Nhất là những lúc khách gặp cơn hoạn nạn (cần nước ngọt, gặp bão) lại cần phải sốt sắng cứu giúp. Chủ và khách đều vui vẻ. Khách chân thật, không có gì đáng e ngại, vì khách thường từ các tàu cá tới, lại không có khí giới gì cả. Chủ lại được tự do xuống tàu xem nữa. Nhưng ôi thôi! Mấy chiếc tàu cá đó thối lắm! Xuống làm chi! Quen với những kẻ lạ thường xuyên tới, anh em
chẳng bận tâm đến họ. Họ có thể lên đảo nghỉ ngơi hoặc chạy nhảy cho khỏi chồn chân tắm nước ngọt ở giếng. Họ có thể đem lưới và cá lên đảo phơi nữa, nhất là trên đảo Hữu Nhật (Cam Tuyền, Robert). Nghỉ ngơi xong, họ lại xuống tàu, nhổ neo đi. Sống quạnh hiu trên đảo, bỗng dưng có người tới thì cũng vui. Chủ và khách không cùng ngôn ngữ, nhưng rồi cũng hiểu nhau. Khách lạ tới là những lúc vui vẻ. Mà chủ cũng mong khách tới nữa. Khách thường rất rộng rãi: đổi vài thùng nước lấy thuốc lá, đồ ăn tươi, rau, trái cây lạ, quả là hời giá.” [28]
- HQ Đại úy Trần Kim Diệp:
“…Một
số quân nhân trên đảo
còn
cho tôi
biết là trước
đó
vài
hôm
một số người
Tàu
đã
lên
đảo đổi chác thuốc
hút
và
nước uống.” [29]
-
Thiếu tá Phạm Văn Hồng: “… Để
nắm vững tình hình trên đảo
về quân số
cũng như cách bố
phòng
của ta, vào khoảng
đầu tháng 10 năm
1973, thời điểm
tháng
10 thường hay có mưa
bão
xảy ra ở vùng biển
Đà
Nẵng, nên Trung cộng
cho một chiếc tàu giả
dạng tàu đánh cá vào đảo
xin tránh
bão.
Việt Nam Cộng Hòa mình vốn
có
tính
nhân
đạo và thật
thà,
thấy họ xin núp bão thì đồng
ý ngay, lại còn tiếp
tế cho họ nước
uống nữa, chúng làm bộ
thân
thiện với ta, tặng
cho anh em quân
nhân
những bộ bài có hình khỏa
thân,
và
rủ lính của
ta chơi trò “trốn
tìm”, mục
đích
là
dò
xem mình
có
hầm hố gì không, nhưng
các
anh em Địa Phương
Quân
của ta đâu có ngờ,
đó
là
mưu mô “thám sát” của
lính
Tàu.
Vì
thế khi chúng tấn
công
lên
đảo, chúng đã nắm
rõ
quân
số của ta có bao nhiêu người,
vũ khí ra sao, có hầm
hố chiến đấu
hay không,
còn
ta, ta không
biết gì về
địch. Lực lượng
hai bên
quá
chênh
lệch như thế
nên
chúng
ta bị thất bại
là
lẽ đương nhiên.” [30]
- Toà
Đại Sứ Hoa Kỳ: tài liệu của
TĐS/HK gởi về
BNG/HK trong tháng
10-1973 dựa trên nguồn
tin từ Hải quân Việt
Nam xác
nhận là đã xảy
ra vài
lần giao thiệp có tính cách xã giao giữa
lực lượng hai bên
trong quần đảo
HS trước tháng 10-1973.
- Tài liệu của Bộ Lục quân/HK/Phòng Tình báo: (tổng hợp qua tường thuật của Gerald Kosh) “…Từ cách thức
cuộc tấn công đổ
bộ đã được
thực hiện, điều
có
thể nhận rõ ngay là TC đã nắm
được tin tức tình báo
chính xác về thành phần,
sự bố trí và khả
năng của lực
lượng trú đóng VNCH trong
nhóm
Nguyệt Thiềm và địa
thế trên từng
đảo một. Sự
thu thập dữ kiện
thiết yếu phần
lớn đạt được
là
do những “tàu đánh cá” thi hành như
là
các
điểm chính yếu
cho việc dọ thám.
Các “tàu đánh cá” TC đã được
tự do ra vào trong hải
phận của nhóm Nguyệt
Thiềm từ nhiều
năm qua. Vì các tàu đánh cá này bề
ngoài
có
vẻ chú tâm vào hoạt
động đánh cá thương
mại nên sự
hiện diện thường
xuyên
của họ trong hải
phận của VNCH không bị
cản trở. Ngoài các hoạt
động đánh cá thực
sự, những tàu đánh cá này còn phục
vụ như là nền
tảng cho việc thu thập
tin tức tình báo. Với
sự ra vào hoàn toàn không bị
giới hạn đến
các
khu vực được lựa
chọn là mục
tiêu
tối hậu, thủy
thủ đoàn của
các “tàu đánh
cá”
đã
có
cơ hội chụp
hình
mỗi đảo, cập
nhật hóa trên hải
đồ những vùng nước
cạn, theo dõi các hoạt
động của VNCH và thám
sát các bãi đổ bộ
sử dụng sau này.
Gerald Kosh đã được
người Việt Nam trú đóng trên đảo
Hoàng
Sa cho biết là nhiều
lần trong khoảng mùa Thu năm
1973, một phái đoàn thiện
chí
TC đã
đổ bộ lên đảo.
Mỗi lần như
vậy, một toán đổ
bộ từ tàu đánh cá lên đảo
và
tặng quà “như
thực phẩm và nước
uống” cho toán lính VNCH trú đóng trên đảo.
Mặc dù bày tỏ
mục đích thân thiện
qua những lần thăm
viếng nhưng qua sự
quen thuộc với
địa hình của
đảo Hoàng Sa mà lực
lượng tấn công đã chứng
tỏ, cho thấy một
cách
hùng hồn là những
phái
đoàn
“thiện
chí này thật ra chỉ
là
những toán thu thập
tình
báo.”
[40]
Các dẫn chứng
trên xác nhận
là TC đã
có ý đồ
thôn tính HS từ
lâu và bắt
đầu thực hiện
công tác dọ
thám địa
hình cùng
khả năng phòng
thủ của toán
ĐPQ trên đảo Hoàng Sa kể từ
mùa hè 1973.
2.- Công tác thao dượt
Sau khi thu thập đầy đủ các dữ
kiện cần thiết, TC bắt đầu soạn thảo và thực hành kế hoạch thao dượt.
Tài liệu mật của Phòng Tình báo/Bộ
Lục quân Hoa Kỳ tiết lộ các hoạt động bí mật của tàu đánh cá vũ trang TC đã được
phi cơ không thám HK ghi nhận trong khoảng thời gian có thể bắt đầu từ tháng 9/1973
cho đến tháng cuối năm 1973 như sau :
“…….. Có bằng chứng cho thấy sớm nhất là vào khoảng trung tuần
tháng 12 và có thể trước đó vào khoảng tháng 9, TC đã tích cực huấn luyện lực
lượng tấn công của họ cho cuộc hành quân vào ngày 20 tháng 1 năm 1974. Trong
thời gian 10 ngày, khoảng hạ tuần tháng 12, 6 tàu đánh cá (loại tàu đánh cá
NanYu mang số 401, 402, 405, 406, 407 và 408) đã được quan sát hoạt động từ hải
cảng và cũng là căn cứ hải quân Bắc Hải (Pei Hai). Những tàu đánh cá hoạt động
từng cặp rời hải cảng vào mỗi buổi sáng và trở về vào mỗi buổi chiều.
- Những chứng cớ dưới đây cho thấy một cách rõ ràng là hoạt
động này dùng vào việc huấn luyện cho lực lượng đổ bộ:
a) Có ít
nhất 100 người trên boong mỗi tàu. Thủy thủ đoàn của tàu đánh cá ít khi trên 15
người. Như vậy việc một chiếc tàu chở nhiều hơn 100 người là một chuyện bất
thường.
b) Có ít
nhất 2 trong số các tàu đánh cá này - chiếc mang số 402 đã được Việt Nam nhận
dạng và chiếc mang số 407 đã được cả Kosh lẩn Việt Nam nhận dạng - được sử dụng
làm tàu đổ quân cho ngày 20 tháng 1 tấn công đổ bộ.
c) Có ít
nhất 4, mặc dù có thể là 6, tàu đánh cá dùng làm tàu đổ quân cho cuộc tấn công
đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa và con số (ít nhất) 100 người trên mỗi tàu (tổng
cộng: ít nhất 600 người) phù hợp gần đúng với tổng số lực lượng đổ bộ ước lượng
là 6 đại đội.
d) Một số
khu vực có lối vào, bãi biển rất giống với vùng bao quanh các đảo Vĩnh Lạc, Cam
Tuyền và Hoàng Sa cách Bắc Hải khoảng 2 giờ hải hành. Sự thiếu kinh nghiệm của
Hải quân TC với loại hành quân này cộng với sự nguy hiểm rõ ràng khi hoạt động
trong khu vực kế cận bãi đá ngầm khiến cho việc huấn luyện và tập dượt trong
một khu vực với những địa thế tương tự là một điều tối cần.
e) Các tàu
đánh cá quan sát ở Bắc Hải và những chiếc đã tham dự trong cuộc tấn công đổ bộ
đã hoạt động từng đôi.
Mặc dù hoạt động này được quan sát trong
tháng 12 nhưng có thể là những sự chuẩn bị cho cuộc hành quân tháng 1 thật ra
đã được khởi sự vài tháng trước đó. Trong tháng 9, TC đã ban hành các biện
pháp an ninh trong căn cứ hải quân Bắc Hải. Những biện pháp này không những
được áp dụng nghiêm ngặt hơn những biện pháp thông thường trong vùng mà nó còn
khắt khe hơn tất cả các hải cảng khác của TC trong cùng thời gian. Lý do cho sự
thận trọng bất thường này không được rõ nhưng có lẻ là liên quan đến các sự
chuẩn bị tấn công đang tiến hành ở căn cứ hải quân.” [40]
3.-Soạn thảo và thi hành kế hoạch hành quân
Kế hoạch của TC đã được soạn thảo
rất chi tiết và kỹ lưỡng, dự trù 2 trường hợp chiếm đoạt HS.
a.- Áp dụng
kế hoạch #1: âm thầm, hạn
chế dùng vũ
lực.
Trong báo cáo gởi lên Nixon sau chuyến đi Bắc Kinh tháng
11-1973, Kissinger tóm lược một trong các điểm quan trọng: “Trung Cộng công nhận lập trường
của Tổng thống là một sự bùng nỗ quân sự ở Đông Dương sẽ có ảnh hưởng bất lợi
đến lợi ích chung của cả hai.” (FRUS
trang 460 volume XVIII, China 1973-1976)
Trước những diễn tiến thuận lợi
và tốt đẹp cho mối giao hảo HK-TC trong tương lai, dĩ nhiên Mao Trạch Đông và
Chu Ân Lai không dại gì làm phiền lòng HK, nhất là khi TC đang xem Nga Sô là kẻ
thù.
Do vậy kế hoạch chiếm đoạt HS một cách âm thầm và hạn chế dùng vũ lực trong mọi
trường hợp đã được TC xem là chủ yếu.
Phương thức này đã được TC quyết
định thi hành đầu tiên.
Nếu
không bị
phát giác,
theo kế
hoạch tằm ăn
dâu, chúng
sẽ chiếm đoạt HS một cách
êm thắm.
Như đã trình bày, với sự điều nghiên cẩn thận, TC đã biết trước lịch trình thay
đổi Trung đội ĐPQ và nhân viên đài khí tượng trên đảo HS. Chúng đã quan sát
chuyến thay quân cuối cùng xảy ra vào cuối tháng 11/1973 [28]. (theo TĐS/HK thì vào ngày 30/10/1973 [41])
Như vậy chuyến
công
tác
thay đổi toán quân sắp
đến theo chu kỳ
3 tháng
sẽ xảy ra sớm
nhất là vào khoảng
đầu tháng 3-1974 hoặc
trễ hơn.
Do vậy, ngay sau lần thao dượt sau cùng vào khoảng hạ tuần tháng 12/1973 chấm
dứt, chúng đã tiến hành kế hoạch xâm lược vào đầu tháng 1/1974 trước khi đột
ngột tuyên bố chủ quyền trên tất cả các hải đảo trong vùng Biển Đông vào ngày
11/01/1974.
Khởi đầu TC đưa quân lên chiếm đóng hai đảo không người là Quang Hòa, Duy Mộng
cách đảo Hoàng Sa về hướng đông hơn 8 hải lý (khoảng 15 km). “Thế cho nên khi chúng tôi phát hiện, thì
quân đội Trung Cộng đã chiếm 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa không biết đã bao lâu
rồi. Trên đảo Quang Hòa chúng đã đặt đài quan sát, chòi canh, xây dựng doanh
trại gắn cờ Trung Cộng.” [4] [34]
HQ Trung úy Trương Văn Liêm trong bài “Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ 5 và
Hoàng Sa 19/01/1974” đã có nhận xét tương tự: “Trên đảo, ta nhận thấy công sự chiến đấu và giao thông hào bằng cement
đã được xây cất. Cờ TC bay phất phới.”
Củng cố Quang Hòa và Duy Mộng xong, chúng tiến dần qua Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Theo
tin tức từ đài khí tượng trên đảo HS [4] (trang
298) và được ghi nhận trong nhật ký TTHQ/HQ thì tàu đánh cá 402 đã đến khu
vực đảo Cam Tuyền từ ngày 10/01/1974 và trong cùng thời gian, tin mật của Mỹ
cho biết không tuần Mỹ phát hiện ra một số đảo có cờ TC và có loáng thoáng 1, 2
chiếc tàu TC [51] (trang 389) .
(Ngày 17-01, HQ 4 đưa toán Biệt hải đổ bộ
lên đảo Cam Tuyền đã tìm thấy 1 tấm bảng bằng gỗ thông sơn đỏ còn mới có ghi 17
chữ Hán, chứng tỏ TC đã có mặt trên đảo Cam Tuyền trong khoảng thời gian này. [4])
Trưa ngày 15/01, HQ 16 tình cờ phát hiện cờ TC trên đảo Cam Tuyền và tàu đánh
cá của chúng neo gần đảo, qua hôm sau 16/01, HQ 16 ghi nhận tại Tây Nam
đảo Cam Tuyền tàu đánh cá 407 đang dùng xuồng di chuyển khoảng 1 trung đội sang
chiếc 402 [4] (trang 299).
Từ những dẫn chứng trên đã cho
thấy điểm quan trọng trong kế hoạch này của TC là chúng chỉ cần sử dụng một lực
lượng tối thiểu, do vậy hai tàu đánh cá số 402 và 407 mỗi chiếc mang theo từ 30
đến 35 lính ngụy trang (tổng cộng khoảng
hai Trung đội) được xem như là thành phần chính yếu.
Nếu như không có chuyến công tác đặc biệt của HQ 16, với lực lượng ĐPQ trên đảo Hoàng Sa quá yếu ớt, kỷ luật lỏng lẻo, vũ khí thiếu thốn, quá dễ dãi và thân thiện không phân biệt đâu là bạn, đâu là thù….chỉ cần một hoặc hai tàu đánh cá ngụy trang giả vờ lên bờ thăm viếng thiện chí như đã từng thực hiện trước đây, chúng sẽ dễ dàng áp đảo toán ĐPQ để chiếm đoạt đảo Hoàng Sa.
Sau
đó TC sẽ mang quân lên chiếm đóng và thiết lập hệ thống phòng thủ trên tất cả các đảo trong nhóm Nguyệt Thiềm.
Như vậy chúng sẽ chiếm Hoàng
Sa một cách êm thắm và đặt
VNCH trước chuyện đã rồi.
HQ
Đại tá Nguyễn Xuân Sơn Tư lệnh Hạm đội trả lời trong cuộc phỏng vấn:
“Tôi không nghĩ Trung Quốc muốn chiếm trọn khu vực, tôi nghĩ là họ chỉ muốn
chiếm những đảo không có ai chiếm đóng. Trong nhóm Nguyệt Thiềm có 5 đảo là
Hoàng Sa, Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, Quang Hòa và Duy Mộng, chúng tôi trú đóng trên
đảo lớn là đảo Hoàng Sa. Hai đảo bị xâm chiếm là Quang Hòa và Duy Mộng cách 15
hải lý từ Hoàng Sa. Vì thế tôi nghĩ là họ chiếm các đảo này một cách êm thắm mà
không làm tổn hại cho chúng tôi.
(Dr. Oscar Fitzgerald phỏng vấn HQ Đại tá Nguyễn Xuân Sơn ngày 16 tháng 7 năm
1975)
HQ Đại úy Đào Dân cũng nhận xét tương tự:
“Theo tôi, sau ngày họp thượng đỉnh với
Tổng thống Nixon tại Bắc Kinh. Trung Cộng bắt đầu có tham vọng bành trướng thế
lực ở Biển Ðông. Việc chiếm đóng hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa đã chứng minh
điều đó. Tuy nhiên Trung Cộng không muốn dùng võ lực để giải quyết tranh chấp
vì e ngại Mỹ, nên dùng chính sách tầm ăn dâu, nghĩa là điền vào chỗ trống cho
hợp nghĩa. Nghĩa là những đảo nào không có ai chiếm cứ, Trung Cộng sẽ đến thiết
lập các căn cứ, và mọi chuyện sẽ trở thành chuyện đã rồi.”
b.-Áp dụng kế hoạch #2: công khai, sử dụng tất cả phương tiện thích nghi tùy theo biến chuyển của tình thế.
Kế hoạch #1 tưởng chừng đã thành tựu, không
may chuyến công tác bất ngờ của HQ 16 phát hiện chúng lăm le đưa người lên đảo
Cam Tuyền đã phá vỡ kế hoạch này.
Ngay sau đó, TC chuyển sang áp
dụng kế hoạch #2 với các hoạt động:
- Tiếp tục dò xét phản ứng của VNCH.
- Tăng cường lực lượng tương ứng với phía ta.
- Sử dụng chiến hạm cỡ nhỏ, dễ dàng xoay trở.
- Rút về bảo vệ khu vực đảo Quang
Hòa và Duy Mộng.
- Khiêu khích, nhưng không sử dụng vũ lực.
- Tăng cường quân lên đảo Quang Hòa.
- Sử dụng lực lượng hổn hợp Hải Lục (và nếu cần sẽ có Không quân yểm trợ) đổ bộ
quân lên chiếm trọn nhóm Nguyệt Thiềm.
- Sử dụng một lực lượng trừ bị hùng hậu gồm 2 tàu ngầm loại Romeo, 8 ngư lôi đĩnh
và 9 tuần duyên hạm túc trực trong khu vực đảo Phú Lâm để tung vào trận chiến
khi cần hầu đảm bảo chiến thắng một khi xảy ra trận hải chiến và để đối phó kịp
thời trong trường hợp VNCH gởi lực lượng tiếp ứng hoặc lực lượng tái chiếm các đảo
đã bị mất.
“…
Khi mà dữ kiện tình báo
đã
có
đầy đủ để cho phép việc sửa
soạn kế hoạch chi tiết
cho cuộc tấn công
đổ bộ. Các
“tàu đánh
cá”
vẫn duy trì
sự quan sát
chặt chẽ các đảo đã được chọn
làm
mục tiêu. Qua sự theo dõi này, TC có thể
phát
giác
và
báo
cáo
những sự thay đổi lực
lượng bộ binh VNCH và sau nữa là sự điều
động chiến hạm của
VNCH.” [40]
Theo Trần Kim Diệp và G. Kosh thì
khi HQ 16 đến HS, họ đã thấy 2 tàu đánh cá TC lảng vảng trong khu vực phía đông
nhóm Nguyêt Thiềm, và riêng Kosh quan sát thấy ít nhất có một lá cờ TC trên đảo
Cam Tuyền, như vậy chứng tỏ là chúng đã có mặt trong khu vực đảo Cam Tuyền
trước HQ 16. Tuy nhiên vì chúng hoạt động như những tàu đánh cá thông thường và
vì chiến hạm không nhận được chỉ thị đặc biệt cần phải chú tâm đến chúng, hơn
nửa nhiệm vụ chính yếu của chiến hạm là đưa toán Công binh lên đảo HS công tác,
nên các SQ và nhân viên HQ 16 khi đang đi phiên trên đài chỉ huy ngang qua đảo
Vĩnh Lạc và Cam Tuyền đã không báo cáo sự hiện diện của chúng về BTL/V1DH.
Về phần tàu đánh cá TC, ngay sau
khi phát hiện HQ 16 tiến về đảo HS, chúng di chuyển đến huớng Tây đảo Cam Tuyền
vì ở vị trí này từ đảo HS không nhìn thấy chúng.
Sau khi hoàn tất công tác, HQ 16 trở
ra thả trôi gần đảo Cam Tuyền “lúc 02:40H
ngày 15 tháng 1, HQ 16 phát hiện tàu đánh cá TC số 402, trọng tải khoảng 100
tấn neo gần đảo Cam tuyền và trên đảo có cắm cờ TC.” [41]
“Chiều
ngày
15/01/1974, một ghe đánh cá Trung cộng
chở người đến
cắm cờ và dựng
lều lên đảo
Cam Tuyền (Robert) thuộc
quần đảo Hoàng Sa. Tuần
dương hạm VNCH dùng quang hiệu
đuổi họ
rời khỏi đảo
nhưng vô hiệu.” [42]
Lúc bị HQ 16 tình cờ phát giác, TC chỉ mới bắt
đầu đặt chân lên hai đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc,
chưa đủ thời gian xây dựng cơ sở, doanh trại.
Tuyên cáo do thông tấn xã Xinhua
của TC phổ biến có đoạn: “Khoảng 1 giờ trưa
ngày 15 tháng 1, chiến hạm do chánh quyền Sài Gòn gởi ra đã có hành động quấy
nhiểu và phá hoại tàu đánh cá Trung Hoa mang số 402 đang hành nghề gần đảo Cam
Tuyền, bắn vào quốc kỳ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang cắm trên đảo
và đuổi tàu Trung Hoa ra khỏi vùng biển của họ một cách vô cớ.” [43]
Trước sự hiện diện của HQ 16 trong ngày 15 và 16, TC vẫn không tăng cường lực
lượng vì chúng chưa rõ ý định của ta.
Ngày 17 tháng 1, lúc 07:45H, HQ 16 đổ bộ 15 người lên đảo Vĩnh Lạc.
Không để mất Cam Tuyền, 2 tàu 402 và 407 chuẩn bị đưa lính lên đảo, nhưng chúng
không ngờ lúc 15:00H HQ 4 cũng vừa được tăng phái đến vùng trực chỉ ngay đến đảo
Cam Tuyền, lập tức hạ xuồng, nhanh tay hơn đưa 27 Biệt hải lên đảo trước chúng.
Tránh đụng độ khi biết mình yếu thế, tàu TC nhổ neo ra xa.
Đến thời điểm này, hiểu rõ âm mưu
thôn tính
trọn vẹn nhóm Nguyệt Thiềm bằng
phương pháp ôn
hòa đã
bị bại lộ, TC lập
tức điều
động 2 chiến hạm loại Kronstadt
(K) số 271 và 274.
Tiếp theo, trưa ngày 18/01, ta tăng cường thêm
HQ 5, buổi chiều cùng
ngày, TC tăng cường
thêm 2 chiếc T 43 mang số
389 và 396.
Dự trù
trận hải chiến có
thể sẽ xảy
ra và để nắm chắc phần
chiến thắng, TC đã điều động 4 Phi tiễn
đĩnh Komar đến HS sáng ngày 19/01.
Không những thế chúng
đã sẵn
sàng lực lượng
tăng viện tại căn cứ hải
quân Yulin và tại đảo Phú Lâm.
Điểm cần
ghi nhận
ở đây là
trong khi phía
ta sử dụng các
chiến hạm lớn
nhất thuộc hạm
đội thì ngược lại
TC điều động
các chiến hạm
loại nhỏ và chỉ hạn
chế số lượng
tương ứng với
ta. Điều này có thể giải thích bởi ba lý do:
- Thứ nhứt: khu vực trong vùng lòng chảo quanh các đảo rất
nhiều đá ngầm khó vận chuyển đối với các chiến hạm lớn khi lâm trận.
- Thứ nhì: TC muốn tránh sự phát hiện
của phi cơ không tuần và chiến hạm Đệ 7 Hạm đội HK hoạt động trong vùng. Tình
báo HK rất ngạc nhiên bởi sự xuất hiện của một lực lượng đáng kể hải quân Trung
Quốc trong quần đảo Hoàng Sa, do vậy đã không có sự báo trước hữu ích về hành
động quân sự chống lại các đơn vị của chính phủ VN trước khi xảy ra trận hải
chiến [44].
- Thứ ba: đây là lý do quan trọng
nhất, vì sẽ
gây
ấn
tượng
chủ quan cho cấp
chỉ huy HQVN
khi so sánh lực lượng
hai bên do vậy
sẽ
không ngần
ngại khi quyết
định
ra lịnh hành
quân tái chiếm đảo
Quang Hòa.
Nếu mang đến một lượng hùng hậu các cấp lãnh đạo quân và dân sự VNCH
sẽ cân nhắc cẩn trọng và có lẽ sẽ lập tuyến phòng thủ thay vì đổ bộ tái chiếm
đảo Quang Hòa.
Và trong trường hơp này HK bắt buộc phải lên tiếng vì Mao trạch Đông đã đồng ý
với Nixon: “Sự công nhận của Trung Quốc đối với quan điểm của Tổng thống là một sự
bùng nổ quân sự ở Đông Dương sẽ có ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích chung của hai
bên.”
Mất cơ hội thực hiện ý đồ chiếm
trọn nhóm Nguyệt Thiềm, TC rút lực lượng về phòng thủ hai đảo Quang Hoà và Duy
Mộng mà chúng đã củng cố.
Đây là ranh giới đã vạch sẵn
trong kế hoạch mà Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã chấp thuận.
Bằng
mọi giá TC nhất quyết bảo
vệ hai đảo này,
dù không chiếm
trọn nhóm Nguyệt Thiềm, nhưng chiếm thêm được hai đảo Quang Hòa, Duy Mộng cũng
được xem như là một sự
thắng lợi để
cũng cố quyền
lực nội bộ.
Và để nắm chắc phần chiến thắng một khi trận hải chiến bùng nỗ TC đã tăng cường
chiến hạm tương xứng với lực lượng ta cũng như cấp tốc mang 4 Komar đến vùng.
Ngoài ra chúng tăng cường đổ quân lên Quang Hòa để ngăn chặn lực lượng ta tái
chiếm đảo. Do vậy lúc 05:15H sáng ngày 19 tháng 1, TC
đổ bộ 400 lính lên đảo Quang Hòa.
(The battle for the Paracel Islands-BQP/HK
ngày 21/01/1974)
Bài phân tích Bộ Quốc phòng/Hoa Kỳ
(BQP/HK) cho là TC đã cân nhắc yếu tố chánh trị khi quyết
định không tấn công lực lượng
VNCH ngay trong lúc các chiến
hạm ta đang thực hiện
cuộc đổ bộ
lên đảo Quang Hòa, vì đây là lúc mà các chiến hạm hải
quân VNCH dễ bị tấn
công nhất.
Và TC dường như đã
cố tình che dấu sức mạnh thực sự của hải quân
họ. Việc đánh
giá thấp sức mạnh của
lực lượng TC đã là một yếu tố trong quyết định sử dụng lực lượng
quân sự của
VNCH.
(phân tích của BQP/HK về cuộc hành
quân của Hải quân TC trong hải chiến Hoàng Sa tháng 3-1974) .
Nếu
như trong tháng 9-1971, không thám Hoa Kỳ
đã
ghi nhận trong khu vực cảng
đảo Phú
Lâm
có
1 khu trục hạm loại
Kiangnan, 4 tuần duyên
đĩnh loại Shanghai II, hai tàu chuyên
chở cận duyên,
hai LCM, hai xà
lan, 1 tàu
chuyên
chở cận duyên đang cặp
bến. Ngoài
khơi có
2 khu trục hạm Kiangnan.(CIA-RDP08C01297R000200120004-5
ngày 19 tháng 10-1971)
Như vậy khi âm mưu
chiếm đoạt
nhóm Nguyệt Thiềm, chúng bắt
buộc phải chuẩn
bị một
lực lượng
hùng hậu hơn nhiều
trên đảo Phú Lâm.
Và thực
tế chứng minh là TC đã dự trù một
lực lượng hải quân hùng hậu
trong kế hoạch cưỡng
chiếm Hoàng Sa. Ngoài các chiến hạm
tham dự trực tiếp trong trận
hải chiến ngày 19/01, tài liệu
CIA cho thấy trong khoảng thời
gian từ 11 tháng 11-1973 đến 20 tháng 2-1974 trong
khu vực bên trong và ngoài cảng đảo
Phú Lâm, không thám HK ghi nhận có sự hiện
diện 1 chiến hạm cỡ
lớn, 2 tàu chở hàng (loại
AKL –Light Cargo Ship), 8 Ngư lôi đĩnh (4 chiếc
loại Huchwan, 4 chiếc loại
P-4), 8 chiếc Tuần duyên hạm
loại Shanghai và đặc biệt
lần đầu tiên TC gởi
2 tàu ngầm loại Romeo đến Hoàng Sa.(CIA-RDP78T04752A001600010012-7)
Đây là lực lượng cần thiết mà
chúng dự phòng trong trường hợp xảy ra hải chiến chúng vẫn luôn nắm ưu thế dù
trong bất cứ tình huống nào.
Theo quan điểm
của Trung Quốc, việc sử
dụng vũ lực
dường như chỉ
có thể
biện minh một khi VNCH khởi đầu
hành động
thù địch
có nghĩa
là lực
lượng VNCH khai hỏa trước.
Hơn nữa, bằng cách hạn chế hành động quân sự nhằm mục đích trước mắt để chiếm
đoạt nhóm Nguyệt Thiềm, Trung Quốc có thể tuyên bố rằng họ đang theo đuổi các
mục tiêu hợp pháp, như được thể hiện trong các bản tuyên cáo về Biển Đông.
Chính vì thế mà BQP/HK đã có nhận định là chính các cấp lãnh đạo dân sự cao cấp
Trung Quốc đã duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với lực lượng quân đội của
mình.
Và yếu tố chính
trị chứ không
phải quân sự là
ảnh hưởng chính yếu đối với các
hành động của
Trung Quốc trong cuộc đối đầu ở Hoàng
Sa.
(tài liệu DIA-646-69-74-SAO tháng 3-1974
của BQP/HK).
Sự đồng thuận về điểm trên đã cho thấy là khi soạn thảo kế hoạch chiếm HS, TC
đã dự liệu là họ sẽ không để chiến tranh mở rộng và kéo dài. Và
cũng không
muốn là
bên
khai hỏa trước, như vậy
chúng
sẽ có
cớ để biện minh đây là
hành
động tự vệ.
Thất bại trong kế hoạch đổ bộ Hải
kích và Biệt hải chiếm lại đảo Quang Hòa đã dẫn đến việc khai hỏa mở màn cho
trận hải chiến.
Với lực lượng không cân xứng, các chiến hạm ta đã rút về Đà Nẵng trưa ngày 19/01/1974.
Ngày 20 tháng 1, lực lượng Bộ
binh và Hải quân TC đã phối hợp thực hiện các cuộc hành quân đổ bộ thật chu đáo
tấn công lực lượng yếu kém của VNCH trên hai đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa trong nhóm
Nguyệt Thiềm.
Sự
kiện phía VNCH chịu
tổn thất rất
ít về
nhân
mạng cho thấy là quân đồn
trú
đã
bị áp
đảo và họ
chỉ kháng cự yếu
ớt, ngoài ra mặc dù TC quyết
tâm
dùng vũ lực để
chiếm lấy Hoàng Sa nhưng
họ chỉ sử
dụng một lực
lượng vừa đủ
để đạt mục
tiêu của họ mà thôi. [29].
Như vậy kể từ ngày 20 tháng 1 năm 1974, toàn thể quần đảo Hoàng Sa đã thuộc về tay Trung Cộng.
NHẬN XÉT
Hoàng Sa đã mất về tay TC, chỉ trừ trong trường hợp dùng vũ lực để
chiếm lại, TC sẽ không bao giờ trả lại cho chúng ta.
Bài học về Hoàng Sa rất đáng cho
chúng ta ghi nhớ để trong tương lai không mất thêm những gì mà chúng ta đang
có.
Tóm lại, có 3 lỗi lầm quan trọng
nhất đã dẫn đến việc mất trọn quần đảo HS vào tay TC:
1.- Thiếu
sự
quan tâm đến việc
phòng thủ nhóm Nguyệt
Thiềm.
Từ mùa hè năm 1951, TC đã bắt đầu đưa một số ít người lên đảo
Phú Lâm.
Tháng 6-1956, phi cơ không thám
HK phát hiện khoảng 75 dân TC trên đảo Cam Tuyền. Ngay sau đó chiến hạm HK đã
được gởi đến nơi và đã đưa toán lính lên đảo để điều tra, kết quả toán người TC
đã rời khỏi đảo (trong thời gian này có 6
người Pháp và một số nhân viên người Việt trên đảo HS).
Trong năm 1958, TC mang 40 tàu đánh cá với 400 ngư phủ ra định cư trên đảo
Phú Lâm, thiết lập các cơ sở phòng thủ, trạm truyền tin và đài radar trên một
số đảo trong nhóm Tuyên Đức. Ngoài ra Bộ chỉ huy quân sự cũng được thành lập
trên đảo Phú Lâm [8].
Ngay sau đó, tháng 2/1959, chúng đưa
ngư phủ xâm nhập nhóm Nguyệt Thiềm nhưng đã bị phát giác và ngăn chận. “Ngày 22 tháng 2-1959, Thủy quân Lục chiến trú
đóng trên một trong các đảo trong quần đảo tranh chấp Hoàng Sa ở Biển Đông, đã
bắt giữ 3 ghe có động cơ cùng 70 người Trung Cộng trong khu vực một đảo khác
trong quần đảo.” [8]
Quốc Tuấn trong Đặc san Sử Địa 1975: “…
Đêm ngày 20 rạng 21.2.1959, một đơn vị hải quân VNCH đóng tại quần đảo Hoàng Sa
phát thấy Trung-Cộng đã lén đưa ngư dân đổ bộ lên các đảo Cam Tuyền (Robert),
Duy Mộng (Drummond) và Quang Hòa (Duncan) trong nhóm nguyệt –thiềm (Crescent)
thuộc quần đảo Hoàng Sa trong mục đích chiếm lấy quần đảo này. Đây không phải
là lần đầu họ làm như vậy. Năm 1956 các ngư dân Trung Cộng cũng đã lén lút đổ
bộ lên Lâm đảo (Wooded island) và đảo Linh Côn (Lincoln Island), cũng thuộc
nhóm nguyệt-thiềm …. (trích nguyên văn)” [45]
Các tàu đánh cá ngụy trang xuất
phát từ miền Bắc xâm nhập miền Nam giữa đường khi bị không tuần HK phát giác
thường quay trở lại nhóm Tuyên Đức để trốn lánh (tài liệu của Trung Tâm Hải Sử HK).
Mặc dù đảo Phú Lâm chỉ cách đảo gần
nhất trong nhóm Nguyệt Thiềm là Duy Mộng khoảng 75 km (40 hải lý) và TC lúc nào cũng luôn rình rập để chờ cơ hội chiếm
đoạt, nhưng chánh quyền VNCH đã không có biện pháp nào để bảo vệ một cách hữu
hiệu.
Thời Đệ nhất Cộng hòa, chiến
tranh Quốc-Cộng chưa bộc phát dữ dội, TQLC được đưa ra trấn thủ đảo HS, đồng
thời chiến hạm hải quân cũng công tác thường xuyên.
Sau biến cố năm 1959, thay vì
tiếp tục duy trì và mở rộng cơ sở phòng thủ trên các đảo còn lại, chánh quyền
VNCH lại rút dần TQLC về nội địa. Tháng 10-1959, 43 lính Bảo an được gởi ra
thay thế (cộng thêm 30 TQLC còn duy trì
trên đảo HS cho đến cuối năm 1963, tuy nhiên quân số lại tiếp tục giảm cho đến
tháng 1-1974 chỉ còn 25 người).
Sau hiệp định Paris tháng 1/1973, mặc dù chánh quyền miền Nam đã thực hiện kế
hoạch thiết lập chủ quyền trên quần đảo Trường Sa, nhưng các cấp lãnh đạo trung
ương và các cấp chỉ huy trực tiếp chịu trách nhiệm an ninh lãnh thổ thuộc Quân đoànI/Quân
khu I (Tư lệnh QĐI/QKI và Tiểu khu trưởng Tiểu khu Quảng Nam) vẫn không nhận ra
giá trị chiến lược của Hoàng Sa để có những hành động cấp thời củng cố hệ thống và gia tăng quân số phòng thủ
trên đảo HS, cũng như thay đổi quan niệm về việc hoán chuyển toán quân trú đóng,
xem đây như là trách nhiệm thiêng liêng để giữ gìn và bảo vệ bờ cõi chứ không phải là nơi trừng phạt các thành phần vô kỷ luật trong quân đội.
Ngoài ra, việc đưa quân thiết lập
căn cứ trên các đảo còn lại, nhất là đảo Quang Hòa nằm ở phía Đông nhóm Nguyệt
Thiềm vẫn chưa được quan tâm đến.
Trước 1973, HK vẫn thường xuyên biệt phái chiến hạm tuần tiễu và phi cơ thực hiện
các phi vụ không thám trong nhóm Tuyên Đức do TC kiểm soát.
Khi Hoa Kỳ bắt đầu rút quân về
nước, chánh quyền VNCH cũng dư biết là đừng nên hy vọng gì nhiều vào người bạn
đồng minh Hoa Kỳ sẽ tiếp tục duy trì sự hiện diện trong khu vực HS và có trách
nhiệm báo cáo cho giới hữu trách VNCH các sự vi phạm lãnh hải của TC.
Dù vậy việc sử dụng các chiến hạm VNCH trong công tác tuần tiễu ngoài Hoàng Sa vẫn
chưa được cấp chỉ huy cao cấp tại BTL/Hải Quân và BTL/VIDH cứu xét.
Mặc dù hải quân VNCH không đủ
chiến hạm để tuần tiễu HS một cách thường xuyên nhưng với cương vị TL/V1DH và
với trách nhiệm “Hoàng Sa Trấn - Hải Biên
Phòng” ít nhất mỗi tháng 1 lần các chiến hạm
loại Khu trục hạm (DER), Tuần dương hạm (WHEC) hoặc Hộ tống hạm (PCE) khi biệt
phái công tác Vùng I Duyên hải vẫn có thể ghé ngang nhóm Nguyệt Thiềm để quan
sát toàn thể khu vực và để nâng cao tinh thần quân nhân đốn trú trên đảo HS.
Không
ai có thể
phủ nhận là
quân lực
VNCH đã
phải phân tán
và phối
trí lực
lượng để giữ
gìn an ninh lãnh thổ cho miền Nam chống lại
Cộng sản Bắc
Việt, nhưng quần đảo
HS tuy xa xôi
vẫn là một
phần khúc ruột
của đất nước,
vị trí nằm
ngay trung điểm của
nước VN và đảo Tri Tôn chỉ cách
Cù Lao Ré khoảng
130 miles (240 km).
Giáo sư Sơn Hồng Đức ngay sau
trận hải chiến Hoàng Sa đã viết lên những lời tâm huyết: “Năm 1974 bắt đầu với trận hải chiến Hoàng Sa (19 và 20 tháng 1) như
nhắc nhở chúng ta đừng quên một quần đảo, chơi vơi giữa bão táp, xa xôi nghìn
dặm, nhưng bao giờ cũng là đất cuả MẸ VIỆT NAM. Hải đảo xa này ít người biết
đến, mặc dù vai trò chiến lược vô cùng quan yếu trong chủ thuyết “tự do hải
hành” của các cường quốc ngày nay…………………………………………………………………………………………
Cha Ông chúng ta, với lòng can đảm vô biên, chí mạo hiểm vô cùng đã để
lại cho con cháu ngày nay một dãy giang sơn gấm vóc gồm lãnh thổ lục địa và
những quần đảo trong Đông Hải và vịnh Thái Lan. Quan niệm sai lầm thường cho
rằng đây chỉ là những bãi cát bão táp không giá trị sản xuất nên chúng ta đã
“thiếu tích cực” trong vấn đề định cư hoặc chiếm đóng.” [46]
Và HQ Đại úy Trần Kim Diệp cũng
có nhận xét tương tự: “… Cấp lãnh đạo đã không có được cái nhìn xa
rộng để thấy được sự qúy giá của quần đảo HS, tuy xa xôi nhưng có vị trí chiến lược
và giàu có về tài nguyên (phốt phát, dầu hỏa, khí đốt, hải sản), nên đã không
có phương sách hữu hiệu để bảo vệ.
Do quá bận tâm đối phó với kẻ nội thù CSBV hung hiểm, nên đã thiếu cảnh
giác về họa xâm lăng của giặc TÀU
phương Bắc. Sớm quên bài học năm 1946 (Tưởng giới Thạch cướp nhóm Bắc đảo của
quần đảo Hoàng Sa) nên lơ là trong việc giữ phần còn lại của quần đảo (nhóm
Nguyệt Thiềm).” [29]
2.-Thiếu
phản ứng cấp
thời, thiếu
kế
hoạch phối
hợp
các
quân binh chủng
cùng
các
quyết định
đúng
mức
trong lúc giao chiến.
Từ ngày 11 tháng 1, sau khi TC
tuyên bố chủ quyền trên cả HS lẫn TS, về phần Bộ Ngoại giao VNCH đã có các phản
ứng tức thời qua bản tuyên bố ngày 12/01/1974 của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao
VNCH Nguyễn Bích Mạc dưới nhan đề “Việt
Nam Cộng Hòa bác bỏ lời tố cáo phi lý của Trung Cộng về quần đảo Hoàng Sa”
và “Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam
Cộng Hòa về việc Trung Cộng vi phạm chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” ngày 16/01/1974 [45].
Nhưng về phần các giới chức ở Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, BTL/HQ, BTL/QĐI,
BTL/V1DH hầu như là không quan tâm đến.
Cựu Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc đã viết: “…
tôi cần minh xác
là
Bộ Ngoại Giao cũng như
cá nhân tôi không hề được Tổng
Thống hay quí
vị Tổng Trưởng Quốc
Phòng,
Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư
Lệnh Binh Chủng hoặc Tư
Lệnh Vùng
tham khảo ý
kiến hay thông
báo
diễn tiến vế các vấn đề
quân
sự, các
cuộc hành
quân…….trong
vụ Hoàng
Sa, Bộ Ngoại Giao đã
đề nghị và
dự thảo bản tuyên cáo
ngày
14 Tháng
Hai 1974 của chính
phủ VNCH nhằm khẳng định
chủ quyền của Việt
Nam trên
các
quần đảo Hoàng
Sa và
Trường Sa, sau vụ xâm
lược của Trung Cộng.
Tôi không nhớ có
một phiên
họp của Nội Các VNCH vào
ngày
17 Tháng
Giêng
1974 hay không, nếu có
thì
phiên
họp ấy đã
đề cập đến những
vấn đề gì
và
đưa ra những quyết định
nào
liên
quan đến vụ Hoàng
Sa.” [6]
Nếu như ngay sau ngày 11/01, các
cấp lãnh đạo VNCH cảnh giác được ý đồ của TC, chỉ thị các cấp trực thuộc đặc
biệt quan tâm đến quần đảo Hoàng Sa, thi hành các biện pháp khẩn cấp điều động
ngay chiến hạm, phi cơ ra thám sát sẽ phát hiện TC sớm hơn ngay lúc chúng mới vừa
đặt chân lên đảo Duy Mộng và Quang Hòa và cơ may ngăn chận chúng sẽ dễ dàng hơn.
Tác giả Chi-kin Lo nhận xét: “Sự thiếu chuẩn bị của các lực lượng miền
Nam Việt Nam đã đảm bảo sự chiến thắng cho Trung Cộng trong trận chiến một cách
dễ dàng hơn. Hành động của Trung Quốc không phải ngẫu nhiên bởi vì sự lâu dài
và kiên quyết của họ về yêu sách chủ quyền đối với các hải đảo.
Quả thật, chánh phủ miền Nam Việt Nam nhìn có vẽ ngây thơ hoặc cẩu thả khi
không nhận thức một cách nghiêm túc bản tuyên bố của chính phủ Trung Quốc ngày
11 tháng 1năm 1974.” [47]
Chỉ đến khi Tuần dương hạm Lý
Thường Kiệt HQ 16 trong chuyến công tác đặc biệt ra đảo Hoàng Sa ngày 15/01, sau
khi đưa toán Công Binh lên đảo, quay trở ra thả trôi gần đảo Cam Tuyền, tình cờ
phát hiện tàu đánh cá TC, lúc bấy giờ BTL/HQ/VIDH mới bắt đầu đối phó, nhưng đây
chỉ là cách đối phó cấp thời
chớ không phải là một kế
hoạch để đối phó
với cả một âm
mưu của TC.
Ngày 16/01 đúng 8 giờ sáng [48] [49],
Tổng thống Thiệu đến thăm VIDH có Trung tướng Ngô Quang Trưởng TL/QĐ I tháp tùng.
Nhân dịp này, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ-Thoại TL/VIDH đã thuyết trình lên TT Thiệu
về tình hình HS, trong đó ông nhấn mạnh “việc chiến hạm
Việt Nam cố gắng
mời chiến hạm
Trung Cộng
rời khỏi lãnh
hải một cách
ôn hòa
nhưng tình hình
trong 24 giờ
qua cho thấy
Trung Cộng
có ý
định khiêu khích.”
Và căn cứ theo ĐĐ Thoại qua quyển sách của ông và qua những lần phỏng vấn
thì TT Thiệu viết thủ bút ra lệnh trực tiếp cho ông phương thức đối phó như sau:
“Thứ nhứt là tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lãnh hải VNCH.
Thứ hai, nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ VNCH” ([50]trang 157&159).
Nhưng theo lời của TL/HQ trong
lần phỏng vấn gần đây nhất thì: “
Khi
ông Thoại
báo
cáo
cho tôi
về vấn đề HS, ông không báo cáo là
có tàu binh của
Trung Quốc mà chỉ nói là có hai chiếc tàu đánh cá có gắn súng đại liên thôi.
Tôi
liền ra lịnh cho Đô Đốc Thoại đuổi
2 tàu
đánh
cá
Trung Quốc ra khỏi hải phận của ta, nếu nó không nghe thì lôi nó giải
giao về Đà
Nẵng.” ([51] trang 324).
Chỉ thị trên của TL/HQ đã được các chiến hạm VNCH tuân hành từ bao năm nay. Trong
vùng biển Phú Quốc, tàu đánh cá Thái Lan thường xuyên vi phạm lãnh hải ta. Mỗi
lần bắt gặp, tàu hải quân chạy đến
chận bắt ngay, đôi lúc, phải nổ súng vào phía sau lái hoặc mũi để cảnh cáo lúc
bấy giờ tàu đánh cá mới chịu dừng lại, sau đó chiến hạm ta áp giải chúng về An
Thới (Phú Quốc).
Và ngay tại Vùng 1 Duyên hải, đã
xảy ra trường hợp đối đầu giữa lực lượng hải quân với tàu đánh cá TC, biến cố
này trong đặc san Lướt Sóng năm 1974, bài “Quần đảo Hoàng Sa và chủ quyền VNCH”
phần “Chủ quyền VN bị xâm phạm tại Hoàng Sa” (trang 28) ghi nhận:
“…Sau khi chiếm được hai đảo Phú Lâm và
Linh Côn mà không gặp trở ngại nào, năm 1959 Trung Cộng dự mưu chiếm cứ nốt các
đảo ở phía Nam (thuộc nhóm Nguyệt Thiềm) bằng cách áp dụng lại các kế hoạch
trên. Nhưng Hải Quân Việt Nam đã kịp thời ngăn chận âm mưu này và đã bắt giữ
một số ngư phủ Trung Cộng xâm nhập bất hợp pháp các đảo Quang Hòa và Duy Mộng.”
[51a]
Phương thức hành động lần này của TC tại HS trong tháng 01/1974 hầu như cũng
tương tự như năm 1959, nhưng tiếc thay, phản ứng về phía ta lại khác.
Mặc dù đã có chỉ thị rõ rệt từ TT
Thiệu [50] và TL/HQ, nhưng không hiểu sao lịnh này vẫn không được chuyển đến
chiến hạm để thi hành.
Dĩ nhiên là nếu nhận lệnh từ BTL/VIDH, HQ 16 và HQ 4 phải làm tròn nhiệm vụ kể
cả việc sử dụng vũ khí để áp đảo và bắt giữ chúng, nhưng vì lệnh từ BTL/VIDH
chỉ yêu cầu chiến hạm cố gắng đuổi chúng ra khỏi khu vực đảo Hoàng Sa và Cam
Tuyền, không được bắt giữ và sử dụng vũ khí.
Qua cuộc phỏng vấn của đài BBC
ngày 15/12/2007, ĐĐ Thoại trả lời như sau:"Lúc
đầu
chúng tôi làm đúng chỉ thị của tổng thống là mời họ ra khỏi lãnh hải một cách ôn hòa, thế nhưng họ nhất định không chịu ra. Cho tới sáng 19/1, tình hình hai bên
cùng chĩa súng không thể kéo dài hơn được nữa. Quân Việt Nam Cộng Hòa
phải dùng võ lực theo đúng chỉ thị của tổng thống và khai hỏa lúc
khoảng 10 giờ sáng 19/1/1974."
Và trong lần phỏng vấn vào tháng 01/2014:
“Trước hết là phải dùng các biện pháp ôn hòa như đèn hiệu, cờ hiệu, loa để mời họ ra khỏi lãnh hải và lãnh thổ VNCH.
Tuy nhiên nếu tất cả các biện
pháp ôn hòa không thành công thì ông cho phép tôi dùng vũ lực để chứng minh chủ
quyền của VNCH trên những đảo đó nên các chiến hạm đã làm tất cả các biện pháp
đó rồi nhưng không được nên phải nổ súng.” [52]
Dẫn chứng trên đã chứng tỏ là TL/VIDH chỉ thi hành lệnh thứ nhứt của TT Thiệu “là tìm đủ mọi cách
ôn hòa
mời các chiến hạm
Trung Cộng
ra khỏi
lãnh hải
VNCH.” mà quên thi hành lệnh thứ hai “nếu họ
không thi hành thì được nổ
súng cảnh
cáo trước mũi
các chiến hạm
này và
nếu họ ngoan cố thì
toàn quyền sử
dụng vũ khí
để bảo
vệ sự vẹn
toàn của
lãnh thổ VNCH.”
(Lời tác giả: theo
TL/HQ thì hai chữ chiến hạm mà
TL/V1DH dùng để báo cáo lên TT Thiệu thực ra là hai tàu đánh cá vũ trang mang
số 402 mà HQ 16 đã phát hiện vào chiều
ngày 15/01 và số 407 vào trưa ngày 16/01).
Không những
thế, lệnh của TL/HQ mà các Hạm trưởng đã từng áp dụng để đối phó với bất cứ tàu
thuyền ngoại quốc nào vi phạm hải phận VN cũng không được ĐĐ Thoại tuân hành.
Tài liệu tìm được cho thấy HQ 16
đã phát hiện tàu đánh cá TC mang số 402 từ trưa ngày 15/01 [41]. Qua trưa ngày
hôm sau 16/01, phát hiện thêm chiếc 407.
Và từ khi HQ 16 phát giác tàu đánh cá TC vào trưa ngày 15/01, cho đến khi HQ 4
nhập vùng, trong khu vực lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm cũng chỉ có hai tàu đánh
cá TC mang số 402 và 407 (TC đưa 2 chiếc K.271 và 274 đến vùng vào chiều ngày
17/01).
Hành vi của 2 tàu đánh cá TC còn
tệ hại hơn các tàu đánh cá Thái Lan, không những chúng vi phạm hải phận nước
ta, chúng còn trắng trợn đưa người lên cắm cờ trên đảo. Khi bị phát giác, chúng
ngang ngược khiêu khích và thách thức chiến hạm ta.
Theo lời thuật lại của
Gerald Kosh, thì vào trưa ngày 18/01, hai tàu này không những ngoan cố không
chịu rời khỏi lãnh hải VN, mà chúng còn quấy rối chiến hạm ta.
Chiếc 402 di chuyển một cách bất thường rất gần với HQ 16, còn chiếc 407 đâm
ngang trước mũi HQ 4 chỉ cách khoảng 10m, tạo cơ hội cho HQ 4 vận chuyển húc
mũi tàu đâm vào hông chiếc 407 của Trung Cộng, lúc bấy giờ “hai chiếc tàu Trung Cộng đành phải nhượng bộ, rời vùng chạy vòng qua
phía nam Cam Tuyền, sau đó chạy về phía hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng” ([38]trang
40).
Sáng ngày 18/01, BTL/V1DH ra lịnh cho các chiến hạm đuổi tàu TC ra khỏi đảo Cam
Tuyền và bảo vệ các đảo Hoàng Sa, Cam tuyền, và Vĩnh Lạc bằng mọi giá. Tuy nhiên,
lúc 11:00H khi chiếc 407 di chuyển vào vùng nước cạn, HQ 16 không thể đuổi
theo, Hạm trưởng HQ 16 đã yêu cầu thẩm quyền cao cấp ở BTL/HQ cho
phép tác xạ trước mũi chiếc 407, nhưng không được chấp thuận [52a] và tiếp theo lúc 13:00H khi chiếc này đến gần đảo Cam Tuyền khoảng
vài trăm yards, một lần nữa HQ16 yêu cầu được tác xạ lên đảo để ngăn chận chúng nhưng cũng không được chấp thuận.
Vì chiến hạm ta không được lịnh dùng vũ lực để bắt giữ chúng, nên từ
Cam Tuyền, chúng di chuyển sang khu vực Quang Hòa, Duy Mộng. Như vậy chúng vẫn
còn loanh quanh trong lãnh thổ của ta, rồi sau đó lại xuất hiện trong ngày hải
chiến 19/01 đưa quân lên đảo Quang Hòa và trợ giúp chiến hạm TC bị lâm nguy.
Tiếp theo, trong ngày 20/01,
chúng là thành phần chủ lực hướng dẫn các tàu đánh cá khác đưa lực lượng bộ
binh đổ bộ lên chiếm các đảo Cam Tuyền, Hoàng Sa và Vĩnh Lạc.
Có thể nói việc BTL/VIDH không ra lịnh chiến hạm ta bắt giữ hai tàu đánh cá trá
hình 402 và 407 là một thất lợi lớn cho ta, vì 2 tàu đánh cá này là hai chiếc
chủ lực trong kế hoạch chiếm đoạt HS của TC.
Chúng đã đảm nhận công tác do thám lực lượng và vị trí phòng thủ ta trên đảo
HS, cũng như thăm dò thủy đạo, địa hình trên tất cả các đảo trong nhóm Nguyệt
Thiềm vì thế chúng đã được gởi đến HS ngay từ đầu tháng 1/1974 [40].
Nếu 2 tàu này bị bắt giữ, TC bắt buộc sẽ phải cân nhấc kỹ lưỡng trước khi hành
động, phần vì kế hoạch của chúng sẽ bị trở ngại, phần khác vì ta đã có sẵn con tin cùng bằng cớ hiển nhiên về ý đồ xâm lăng của chúng (như vũ khí trang bị trên tàu, hệ thống antenna….) để chứng minh trước dư luận thế giới.
Và
việc
không áp dụng biện pháp vũ lực để bắt giữ tàu đánh cá TC không hẵn là sai lầm của ĐĐ Thoại mà thật sự chính là do thủ bút của TT Thiệu _như
ĐĐ Thoại đã trả lời trong cuộc phỏng vấn của Hải quân HK _trong đó nhấn mạnh ở điểm “Ngoài biển anh chỉ cần có vài hành động phù hợp với luật pháp quốc tế.” |
Khi trách nhiệm được trao cho Tướng Trưởng, kế hoạch hành quân sẽ được phân
nhiệm rõ ràng, chi tiết hơn và chắc chắn là Sư đoàn I/Không quân sẽ phải thi
hành trách nhiệm tăng phái phi cơ khi được yêu cầu, do vậy cuộc diện có thể thay
đổi khi có phi cơ tham chiến.
Với thủ bút trao trực tiếp cho ĐĐ
Thoại trước sự hiện diện của Tướng Trưởng, TT Thiệu ngay từ đầu đã giao cho
TL/VIDH trách nhiệm đối phó với biến cố HS, trong khi ĐĐ
Thoại chỉ có
thẩm quyền chỉ huy và điều
động các
lực lượng hải quân trong vùng trách nhiệm.
Chính ĐĐ Thoại xác nhận vai trò của chánh quyền trung ưong ở Sài Gòn và
Bộ TTM: “Tôi
nghĩ là Sài Gòn, Bộ Tổng
Tham Mưu, đôi
khi họ không theo dõi tình hình. Và họ
không muốn bất cứ
trách nhiệm nào.” (trang 55,tài liệu phỏng vấn của Hải quân Hoa Kỳ)
Tuy nhiên trách cứ này hơi quá đáng
vì chính Trung tướng Đồng Văn Khuyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Tiếp vận QL/VNCH
trong tập tài liệu viết về QL/VNCH cho Trung tâm Quân sử Bộ binh Hoa Kỳ tháng 12 năm 1978 trang 388 đã trả lời cho câu hỏi
vì sao QĐ I và Bộ TTM/QLVNCH đứng ngoài trong trận hải chiến HS:
“Trong các chuyến
thanh tra, ông
thường ra lịnh trực tiếp
cho các
Tư lịnh Vùng;
có
những lần khác,
ông tự tay viết
cho họ. Do đó,
một vài
hành
động quan trọng đã
được thực thi mà
không
thông
báo
cho Bộ TTM hoặc không
do Bộ TTM chỉ huy. Cuộc đụng
độ đáng
tiếc với chiến hạm
Trung Cộng xảy ra đầu
năm 1974 là
trường hợp điển
hình.
Ông đưa
ra quyết định đối phó với Trung Cộng
sau khi nghe TL/VIDH thuyết trình
mà
không
thông
báo
Bộ TTM.”
Cũng vì vậy, từ ngày 15/01, khi HQ 16 báo cáo sự hiện diện của TC
trên đảo Cam Tuyền cho đến ngày 19/01,
không có một phi cơ nào của không quân VNCH được gởi ra để thi hành công tác
quan sát.
Sáng ngày 19/01, khi cuộc đổ bộ tái chiếm đảo Quang Hòa thất bại, phải triệt
thoái toán Hải kích và Biệt hải về tàu và sau đó trận hải chiến bùng nổ. Giữa
lúc các chiến hạm VNCH đang chiến đấu một mất một còn với các chiến hạm TC vẫn
không thấy một phi cơ chiến đấu nào của Sư Đoàn I/KQ bay ra yểm trợ mặc dù đã
được hứa hẹn từ trước và lý do đã được đưa ra vào phút chót là vì thiếu nhiên
liệu. *
Trong cương vị chỉ huy hành quân,
ĐĐ Thoại đã nghĩ đến việc phải cần có không yểm, ông gởi công điện lên Bộ TTM
thỉnh cầu cung cấp phi vụ trinh sát và tình báo nhưng Bộ TTM không đáp ứng, điều
này đã cho thấy là ngay cả bộ chỉ huy cao cấp nhất của quân lực VNCH cũng coi
thường sự hiện diện của TC.
Dự trù nhu cầu không yểm, trước
khi khai hỏa, Vùng1 DH đã liên lạc với SĐ1/KQ và yêu cầu cung cấp không yểm đã
được Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh Tư lệnh SĐI/KQ chấp thuận [35].
Do vậy lúc 10:10H, BTL/V1DH thông báo cho Đại tá Ngạc là phi cơ KQ/VN sẽ bay ra
sớm để yểm trợ và đã cung cấp cho ông tần số để liên lạc [52b].
Nhưng khi giao chiến, ĐĐ Thoại liên lạc hàng ngang với Tư lệnh Sư đoàn 1 Không
quân để hỏi xem có thể làm gì để giúp ông, nhưng được trả lời là phi cơ không
thể bay ra Hoàng Sa vì khoảng cách quá xa. Phi cơ chỉ có 5 phút bay tác chiến
trên không phận quần đảo Hoàng Sa!
Vì vậy, đã không có sự giúp đỡ của lực lượng không quân. Nhưng thật trớ trêu là
sau trận hải chiến, Bộ TTM lại chất vấn tại sao ông không yêu cầu không yểm! [32]
(Bài phân tích của HQHK cho
thấy là
các
loại phi cơ
F-5**, A-1 và AC-119 của không
quân
VN có
khả năng
bay từ phi trường
Biên Hòa ra Trường Sa cách khoảng
400 hải lý
trong khi phi trường Đà
Nẵng chỉ
cách
Hoàng
Sa khoảng 200 hải
lý)
[53].
Bài viết của NT Vương Văn Bắc cũng đề cập đến khả năng của phi cơ VNCH: “…Tôi còn nhớ một chi tiết qua phần trình bày của Ðại tướng Tổng Tham mưu trưởng: Vì
khoảng cách quá xa giữa Ðà Nẵng và quần đảo Hoàng Sa, máy bay của ta dù có trang bị thêm những bầu chứa nhiên liệu cũng chỉ có thể tác chiến trong vùng trời Hoàng Sa khoảng mười lăm phút mà thôi…”
[6]
Và trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng, không những thiếu không yểm, lực lượng bộ
binh cũng không được tăng cường, HQ 4 phải sử dụng 14 nhân viên cơ hữu lên
phòng thủ Cam Tuyền và HQ 16 đưa 15 người lên đảo Vĩnh Lạc.
Lệnh tăng phái này đã đưa đến sự thiếu hụt nhân viên, ảnh hưởng đến khả năng chiến đấu của chiến hạm (gần Tết, một số nhân viên đã được cho nghỉ
phép, HQ 16 chỉ còn 80% quân số hiện diện [51]).
Các giới chức thẩm quyền xem đây
là cuộc “tao ngộ chiến”, vì vậy
trong ngày 19-1 các quyết định rất quan trọng về chiến lược và chiến thuật đã
không được suy xét tận tường dẫn đến việc mất trọn quần đảo Hoàng Sa.
Trong
khi địch quân
thông
suốt về địa thế
các đảo và
khả năng phòng
thủ của ta, thì
bên
ta lại mịt mờ về
khả năng của chúng.
Có lẽ vị chỉ huy hành quân ĐĐ Thoại đã quá tự tin khi ông nói với TL/HQ là: “Tôi nghĩ càng sớm càng tốt. Bởi vì họ chưa sẵn sàng.”
[32]
Câu nói này nên dành cho phiá ta
thì đúng hơn, vì chưa sẵn
sàng nên đã thất bại khi đổ
quân lên đảo Quang Hòa, đã thiếu không yểm,
đã bỏ
HQ 10 trôi dạt và đã bỏ
lại các chiến sĩ Hải
quân và ĐPQ trên các đảo Hoàng Sa, Cam Tuyền và Vĩnh Lạc
!!!???
Các cấp chỉ huy có lẽ quá chủ
quan mà quên là địch đã sẵn
sàng lực lượng của chúng từ
lâu ngay tại căn cứ trên đảo
Phú Lâm chỉ cách đảo Quang Hòa, Duy Mộng khoảng 75 km.
Khi cần chỉ mất
khoảng 2 tiếng đồng hồ,
chúng sẽ có mặt ngay tại vùng chiến.
Tài liệu CIA tháng 10/1971 đã cho thấy lực lượng hải quân TC hiện diện trong khu
vực đảo Phú lâm gồm có 3 khu trục hạm
Kiangnan và 4 tuần duyên hạm loại Shanghai II (hai loại này đã có mặt yểm trợ
cho cuộc đổ bộ trong ngày 20/1). (CIA-RDP08C01297R000200120004-5
ngày 19/10/1971)
Ngoài ra trong kế hoạch TC cũng dự trù loại trừ khả năng chiến thắng và tái
chiếm Hoàng Sa của VNCH một khi trận chiến bùng nổ, do vậy chúng đã tăng cường
một lực lượng trừ bị hùng hậu trong khu vực đảo Phú Lâm trong khoảng thời gian
từ 11 tháng 11-1973 đến 20 tháng 2-1974, đặc biệt trong số này có 2 tàu ngầm
loại Romeo. (tài liệu
CIA-RDP78T04752A001600010012- TOP SECRET- KH-9_7 May 1974)
Về phần không quân, tài liệu của Bộ quốc phòng HK dựa trên nguồn tin tình báo
cho thấy là các phi cơ chiến đấu của TC đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng.
Hải quân TC đã tăng phái 20 MIG-15 thuộc Sư đoàn 12 không quân hải quân và Bộ
Tư lịnh KQ ở Kuang Chou đã ra lịnh khẩn cấp cho 6 chiếc MIG-19 loại trinh sát
dời sang căn cứ không quân Lingshui ở Hải Nam để tham gia chiến dịch hành quân
biển ở quần đảo Hoàng Sa.
Như vậy cũng đủ để nhận ra là
chúng đã điều động và duy trì một lực lượng hùng hậu như thế nào trước khi tiến sang xâm chiếm nhóm Nguyệt Thiềm.
Lệnh hành quân từ BTL/HQ chiều
ngày 18/01 chỉ thị Vùng I
tái chiếm thật nhanh 2 đảo Duncan và Drummond bằng mọi giá, dùng biện pháp ôn hòa trước.
([4] trang 301) đã dựa
trên những điều kiện thật lý
tưởng, không cần biết
trước địa hình,
địa thế, không quan tâm đến lực lượng phòng thủ và
tăng viện của địch,
không có kế hoạch dự trù
không yểm.
Ngay cả hải pháo cũng không được sử dụng để dọn đường cho lực lượng đổ bộ và
các chiến sĩ hải quân trước khi đổ bộ lên đảo đã nhận lịnh từ Đại tá Ngạc là “không được nổ súng và lên bờ yêu cầu toán quân của họ rời đảo.” ([4] trang 250), trong khi trên đảo
Quang Hòa “địch
đã
thiết lập 5 dãy nhà tiền
chế sơn màu olive,
các công sự phòng thủ” (phúc trình số 001/HQ
5/PT/K ngày 21/02/1974).
Và ngoài lực lượng đã có sẵn từ trước, lúc 05:15H, 2 chiến hạm TC đã đổ bộ thêm
400 quân lên phía Đông Bắc đảo Quang Hòa [52b]; vì vậy khi toán Hải kích và
Biệt hải đổ bộ lên đảo đã bị khoảng 1 tiểu đoàn lính TC bao vây lúc 08:30H [54])
Thật là vô lý khi tàu đánh cá trá hình của TC đã bị chiến hạm ta húc mũi vào
hông mà chúng vẫn lì lợm không chịu rời khỏi lãnh hải VN thì sá gì toán đổ bộ
vài chục người của ta lên đảo, chỉ dùng lời mà chúng lại bằng lòng rời đảo hay
sao; trong khi lực lượng phòng thủ của chúng đông gấp bảy, gấp tám lần lực
lượng ta đã chờ sẵn trong các công sự phòng thủ???!!!
Là một nhà ngoại giao chuyên
nghiệp, nhưng NT Vương Văn Bắc đã có nhận định thật chính xác: “Tuy không có sự
hiểu biết chuyên môn về vấn đề,
tôi
cũng ý thức được
là
trong một
cuộc chiến hiện đại, nếu không đem
lại cho các lực lượng đổ
bộ không yểm đầy
đủ
thì
toan tính cho quân đổ
bộ chiếm lại quần đảo Hoàng Sa sẽ chỉ là một hành động phiêu lưu vô vọng.” [6]
Chỉ tiếc là nếu như không có cú điện thoại của TT Thiệu, với suy nghĩ của ĐĐ
Thoại có thể là sau khi rút toán đổ bộ về lại chiến hạm, ông sẽ sử dụng các
chiến hạm làm tuyến phòng thủ các đảo còn lại ở phía Tây nhóm Nguyệt Thiềm, đem
toán Hải kích và Biệt hải lên tăng cường các đảo Hoàng Sa, Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
Thêm vào đó, toán tiếp viện gồm có Hộ tống hạm HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh chở
theo 91 Địa phương quân và 15 Biệt hải sẽ
đến vùng vào khoảng chiều ngày 19-1 [55] ([4] trang 301), như vậy ta đã có sẵn một lực lượng phòng thủ đáng kể đủ để đương
cự với địch trong một thời gian.***
Và
nếu VNCH vẫn tiếp tục gởi lực lượng
tăng viện, chứng tỏ
quyết tâm giữ HS bằng
mọi giá, thế giới sẽ quan tâm đến tình
hình HS, vì thái độ cứng
rắn của VNCH có thể đưa đến nguy cơ của một trận chiến
khốc liệt giữa một cường quốc và
một nước nhược tiểu.
Đây sẽ là
cơ hội để dư luận quốc tế có
dịp bàn cãi và thảo luận về lịch sử và
chủ quyền quần đảo
HS, dã tâm của TC âm mưu dùng vũ lực
chiếm đoạt
HS từ tay VNCH sẽ bị
lột trần.
Từ đó, TC sẽ phải duyệt xét lại kế hoạch của họ vì tiếp tục gây chiến TC sẽ gặp
nhiều khó khăn về mặt tuyên truyền và sẽ làm giảm uy tín đối với các nước nhược
tiểu cũng như làm tổn thương đến mối giao hảo với các nước trong vùng Đông Nam
Á và các nước khác kể cả CSBV.
Để duy trì mối giao hảo HK-TC thuận lợi và tốt đẹp trong tương lai, dĩ nhiên
Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai không dại gì làm phiền lòng HK, nhất là khi TC đã
hứa với Kissinger:
“sự công nhận của Trung Quốc về lập trường của Tổng thống là một sự bùng nổ quân sự ở Đông Dương sẽ có ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích chung của hai nước (nguyên văn: “Recognition
by the Chinese of your position
that a military flare up in Indochina will have adverse effects on our mutual
interests”) [phúc trình về chuyến thăm
Trung Cộng của Henry Kissinger gởi Tổng thống Nixon ngày 19 tháng 11 năm 1973 – FRUS 1969-1976]
Riêng HK, tuy muốn phát triển mối liên hệ ngoại giao với TC, nhưng HK cũng
không thể khoanh tay khi cuộc xung đột lan rộng, bắt buộc HK sẽ phải lên tiếng
để yêu cầu TC ngưng ngay các hoạt động quân sự.
Lo ngại về
sự tổn
thương trong mối quan hệ
với HK và phản
ứng bất
lợi trước
dư luận
thế giới, nên trong kế
hoạch chiếm HS, TC đã tiên liệu
là sẽ
không để
chiến tranh mở rộng
và kéo dài và sẽ không là bên nổ
súng trước.
Trong điện văn
gởi TĐS/HK/SG ngay vào chiều tối ngày 19 tháng 1, BNG/HK đã đưa ra lập trường
của chánh phủ HK như sau: “… mong muốn
làm dịu tình hình trước khi dẫn đến bất cứ điều gì nghiêm trọng hơn là sự đụng
độ giữa các chiến hạm. Đặc biệt Bộ Ngoại giao muốn tránh có sự đối đầu giữa
Việt Nam và Trung Cộng, điều này sẽ đưa đến, trực tiếp hoặc gián tiếp, sự giúp đỡ
tích cực hơn cho CSBV… Quan tâm chính của chúng ta là mang lại sự kết thúc cho
cuộc chiến tranh hạn chế đã xảy ra, làm giảm bớt giọng điệu phô trương và
khuyến khích cả hai bên chuẩn bị tư thế pháp lý của họ cho đến khi có thể được
cứu xét trong một diễn đàn thích hợp.
Yêu cầu
Đại sứ gặp Tổng thống Thiệu hay NT Bắc để thảo luận tình hình, nói rõ là không
có lợi cho Việt Nam cũng như HK khi cuộc xung đột về quần đảo HS trở nên trầm
trọng hơn. HK tin rằng, nếu có thể, nên tránh có thêm những cuộc đụng độ hải
quân và chánh phủ VN nên đi đầu trong việc tìm kiếm giải pháp hòa bình hoặc ở
hội nghị về luật biển (LOS), tòa án quốc tế Hague hay LHQ.” [56]
Như thế, cuộc xung đột sẽ được chuyển sang mặt trận ngoại giao vì kéo dài trận
chiến sẽ không có lợi cho cả Hoa Kỳ lẫn Trung Cộng.
Một điều chắc chắn là ta sẽ mất hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng, nhưng ít nhất các đảo Hoàng Sa, Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Tri Tôn vẫn còn là một phần của tổ quốc Việt Nam.
Có một câu hỏi lớn được đặt ra ở đây là nếu như Tư lệnh Hải quân
không ra lịnh cho HQ 4 và HQ 5 trở về Đà Nẵng thay vì trở lại cố thủ Hoàng Sa
thì tình thế sẽ diễn tiến như thế nào? Vì lúc bấy giờ lực lượng tăng viện gồm
có Hộ tống hạm HQ 11 và 3 Tuần duyên đĩnh HQ 709,711, 723 cùng với hơn 100 Địa
phương quân và Biệt hải đã ra đến HS, như vậy ta vẫn còn một lực lượng đáng kể
cố thủ các đảo còn lại.
HQ Đại tá Hà Văn Ngạc nhận xét: “Một lần
nữa, giả dụ rằng ta cứ để Trung cộng có mặt trên đảo Quang Hòa, trận hải chiến
đã không xẩy ra thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục hiện-diện trên đảo Hoàng Sa,
tuy nhiên có thể phải trải thêm quân trên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy
Mộng, để tránh sự lấn chiếm, cộng thêm là Hải quân Việt Nam phải thường xuyên
tuần tiễu với một hải đoàn tương đối mạnh.” [4]
Ngoài ra HQ Đại úy Đào Dân trong bài viết “HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa”
cũng có nhận xét tương tự: “… sau ngày
họp thượng đỉnh với Tổng Thống Nixon tại Bắc Kinh. Trung Cộng bắt đầu có tham
vọng bành trướng thế lực ở biển Ðông. Việc chiếm đóng hai đảo Duy Mộng và Quang
Hòa đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên Trung Cộng không muốn dùng võ lực để giải
quyết tranh chấp vì e ngại Mỹ, nên dùng chính sách tầm ăn dâu, nghĩa là điền
vào chỗ trống cho hợp nghĩa. Nghĩa là những đảo nào không có ai chiếm cứ, Trung
Công sẽ đến thiết lập các căn cứ, và mọi chuyện sẽ trở thành chuyện đã rồi. Do
đó, nếu sau khi đuổi 2 tàu đánh cá Trung Cộng đi khỏi 2 đảo Robert và Money,
Việt Nam Cộng Hòa cứ cho quân đội ra xây dựng trên đó, giữ đảo, dùng ngoại giao
để công kích, thì tuy không lấy lại được 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa, cũng
không mất luôn 3 đảo lớn nhất vùng là Pattle, Robert, Money, và vĩnh viễn Hoàng
Sa không bao giờ trở lại chủ quyền Việt Nam.”
Về mặt chiến thuật, Tư lệnh HQ đưa ra kết luận thật chính xác về phía VNCH: “cuộc
hải chiến giữa ta và Trung Cộng.
Theo tôi
nghĩ, chỉ là
một cuộc “tao
ngộ
chiến”,
đụng chạm nhau trên
đường tuần tiễu bảo
vệ hải phận quốc
gia chớ chưa phải là một trận
chiến có
tổ chức, bởi
vì
chúng
ta chưa nghiên cứu
chính
xác
về địch tình, thiếu
tin tức tình báo, thiếu
không thám, thiếu không trợ,
thiếu trận liệt.”
[4]
Và như ĐĐ Thoại đã trả lời:
•“tôi chỉ biết chúng ta phải làm đủ thủ
tục theo lịnh của Tổng Thống và Tổng Tư Lịnh Tối Cao Quân Đội tức là có một
hành động cụ thể chứng minh chủ quyền của các đảo mà thôi. Tôi không nghĩ là TT
Thiệu có ý ra lịnh Hải Quân phải tiêu diệt lực lượng Trung Quốc hoặc bằng mọi
giá giữ cho được các hải đảo.” ([51] trang 353)
•“Không có cách gì chúng tôi có thể
thắng. Chúng tôi phải đổ bộ và chúng tôi phải có người bị giết.
Không có gì chúng tôi có thể làm bây giờ. Làm thế nào chúng tôi có thể
biện minh trước công chúng nếu họ đến và chiếm đảo mà chúng tôi không nói gì.” [32]
Tóm
lại trong biến cố HS, Hải
quân VNCH đã đơn
độc thừa hành
nhiệm vụ tác
chiến và chỉ huy. Quyết
định của các
cấp chỉ huy Hải quân chỉ
có tính
cách chiến thuật
đối phó với
diễn tiến theo từng giai đoạn.
Như thế làm sao có thể đương cự lại với cả một sách
lược do chính các nhà lãnh
đạo cao cấp nhất của
Trung Cộng chỉ đạo
và giám
sát cuộc hành
quân cưỡng chiếm
Hoàng Sa. [5]
Nếu chỉ vì
dựa vào lý do quá đơn giản là nổ
súng để chứng minh chủ quyền của các đảo, thì đã
rơi vào bẫy của
TC để rồi từ đó
mất trọn cả quần đảo Hoàng Sa.
3.- Không quan tâm đến
lời
cảnh
báo
của
Hoa Kỳ.
“Biết người,
biết ta trăm
trận trăm
thắng.” Trong biến cố HS rõ ràng là
địch biết ta, ngược lại ta không biết chút gì về địch và không quan tâm đến lời
cảnh báo của HK.
Như đã trình bày ở phần trên,
trước khi thi hành kế hoạch, TC đã hoàn toàn an tâm là HK sẽ đứng ngoài cuộc
xung đột.
Có rất nhiều bài viết đổ lỗi là HK đã phản bội VNCH bằng cách thỏa thuận ngầm
để bán đứng HS cho TC và có bài viết đã cho là “Mỹ tìm cách đưa HQ 16 ra Hoàng
Sa để tạo nên trận hải chiến” (Huy
Phương, báo Người Việt Thứ hai 16 tháng 01/2012) qua việc dàn dựng đưa nhân
viên DAO Gerald Kosh ra Hoàng Sa, nhưng qua các tài liệu mật đã tìm được, không
có bằng chứng rõ rệt để kết tội HK.
Hơn 10 năm về trước, vị Hạm trưởng đã chỉ huy chiến hạm HQ 16 trực tiếp tham dự
trận hải chiến là HQ Trung tá Lê văn Thự
đã có nhận xét thật xác thực: “chẳng có gì chứng tỏ
được Hoa Kỳ ngầm thỏa thuận cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Ngược lại, theo nhận xét của tôi, khi dự trận chiến Hoàng Sa, tôi thấy Trung Cộng rất dè dặt trong việc xâm chiếm Hoàng Sa. Trước sau họ chỉ đưa ra vỏn vẹn có ba chiến hạm không thuộc loại tối tân, có thể vì họ ngần ngại có sự can thiệp của Hoa Kỳ. Họ không đưa ra một lực lượng hùng hậu để đánh chiếm Hoàng Sa vì họ sợ nếu Hoa Kỳ phản ứng
thì
sẽ thành lớn chuyện khó xử. Ngoài ra họ còn sợ dư luận thế giới nữa.” [33]
Hiệp ước Paris 1973, chấm dứt sự can thiệp trực tiếp về quân sự của HK và lập
trường không can dự vào những cuộc tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo đã là
động lực khiến HK đưa đến quyết định là: “… dù
trong bất
cứ trường hợp
nào quân đội Hoa Kỳ sẽ
không can dự vào.” nếu cuộc chiến bùng nổ giữa
VNCH và TC.
Ngày 17/01, trước tình trạng leo
thang có nguy cơ dẫn đến xung đột bằng vũ lực (qua việc HQVN tăng cường HQ 4 và TC gởi 2 chiếc Kronstadt đến nhóm
Nguyệt Thiềm), Đại sứ Martin đã gặp và trình bày với NT Vương Văn Bắc về
lập trường của HK, không được rõ NT Bắc có báo cáo sự việc này lên Thủ tướng
hoặc Tổng thống? Hay là có thể chính ông cũng không thể tin là HK sẽ dửng dưng
đứng ngoài, vì vậy ông không thấy cần phải trình lên thượng cấp?? (Nhật báo Chính Luận có loan tin này [57]).
Trong cùng ngày phát ngôn viên BNG/HK tuyên bố là HK không có chủ quyền trên các hải đảo và không dính líu vào các vụ
tranh chấp. Mục đích của HK là mong muốn phía VNCH cố gắng làm dịu tình
hình và tránh các hành động có thể đưa đến sự xung đột có vũ trang.
NT Vương Văn Bắc cũng có nhận xét tương tự: “Hoa Kỳ không muốn can thiệp vào vụ nầy, không muốn đứng hẳn vào một bên
để chống lại bên kia.”
Về phía HK họ cũng không ngờ trận
hải chiến sẽ xảy ra, vì vậy mặc dù vào lúc 0850H
[4] các chiến hạm HQVN đã nhận được
lịnh
tác xạ
vào đảo trong
lúc triệt
thoái toán Hải kích và Biệt hải về tàu nhưng không giao chiến với tàu TC
(VNN
ships were ordered to shell island while extracting troops, but not to engage
the PRC ships), HK vẫn chưa có phản ứng [54].
Chỉ đến khi các chiến hạm nhận lịnh chuẩn bị khai hỏa vào chiến hạm địch, bấy
giờ Tư lệnh Đệ thất Hạm đội HK mới gởi công điện thượng khẩn vào lúc 0950H ra
lệnh cho tất cả các đơn vị trực thuộc tránh xa khu vực HS và tránh các hành động
có
thể được xem như là tham gia hay hỗ trợ cho VNCH [58].
(trận hải chiến khởi sự vào lúc 10:25H)
Trong điện thư gởi về Tướng Brent
Scowcroft ngày 21/01 sau khi TC đã chiếm HS, Đại
sứ Martin lấy làm
tiếc là phải
chi TT Thiệu
có mặt
ở Sài Gòn
ông sẽ
đề nghị giải
pháp thích
nghi hơn [12] và ông cũng cho là HS đã mất thì
không làm cách gì để TC trả lại và HK đã
từ chối một
cách miễn cưỡng
việc tìm kiếm những
người sống sót
[26].
Tiếp theo, ngày 21/01 trong điện thư báo cáo về BNG/HK diễn tiến đưa đến trận hải
chiến, Đại sứ Martin trình bày: “… Tôi hoàn toàn chắc
chắn là
hành
động như vậy sẽ
không
thể nào
xảy ra nếu không
có sự chấp thuận của
chính
Tổng thống Thiệu, người
đã
hiện diện tại Đà Nẵng vào thời điểm
đó,
mặc dù
chúng
ta có
thể cho là,
theo ý
kiến của của tôi, hành
động này
là vụng
về …”
Và sau khi phân tích nguyên nhân đưa đến trận hải chiến, Đại sứ Martin nhận
xét: “… Đây là hành động được xem như
là phản ứng đối với sự hiện diện của lực lượng Trung Quốc
trên lãnh
thổ mà trong gần 200 năm
rõ ràng được coi là thuộc về người Việt Nam.
Nhất định Trung Cộng
sẽ tuyên bố cho là
Chính phủ Việt
Nam đã gây ra các cuộc đụng độ, nhưng qua các
văn kiện không xác nhận là
Chính phủ Việt
Nam đã có bất
cứ ý định
nào mang quân ra quần đảo
HS hoặc dùng những phương
cách khác đe
dọa Trung Quốc.” [59]
Ngoại trưởng Kissinger trong cuộc họp báo ngày 23/01 từ chối đứng về phe nào trong cuộc tranh chấp ở quần đảo HS và
HK “lấy làm
tiếc việc dùng
lực lượng quân sự để giải quyết vấn đề.” [60]
Vì vậy, ngoài việc không ước định được mưu đồ của địch và không tập trung vào
việc nghiên cứu các biện pháp đối phó với TC, các giới chức VNCH cũng đã bỏ lỡ
cơ hội tiếp xúc với Đại sứ Martin để cố gắng tìm hiểu thêm về khả năng HK có
thể giúp được **** vì từ ngày 17/01
cho đến ngày 19/01 không thấy đá động đến những lần tiếp xúc tiếp theo giữa HK
và VNCH.
Như đã
dẫn chứng ở
phần trên, chủ đích
ưu tiên của
TC là áp
dụng kế hoạch
thứ 1, có nghĩa
là chiếm
đoạt HS một cách
êm thắm.
Và nếu
cho là HK âm
mưu với TC, thì cần
gì HK phải dựng
đứng lên chuyện đưa
Gerald Kosh ra HS.
Sự thật hiển
nhiên là
TC hầu như hoàn
tất kế hoạch
này nếu
không có
chuyến công tác
đặc biệt của
HQ 16 ra HS tình cờ
phát hiện
chúng.
Có thể nói đây là cơ may của
chúng ta, vì nếu như lúc bấy giờ các cấp lãnh đạo VNCH có những buổi họp thảo
luận một cách sâu rộng để chọn ra đường lối ứng xử hợp lý cho từng giai đoạn,
thì có lẽ chúng ta chỉ mất hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng mà thôi.
Và ngay trong thời điểm này,
nếu nhìn lại vấn đề, khi chúng ta nhận thức được
là những lời
khuyến cáo về phía
HK có thể giúp chúng ta còn giữ lại
một phần nào
quần đảo HS, thì cũng đã quá
muộn màng.
Trong khi giặc thù phương Bắc đưa
lực lượng quân sự xâm nhập quần đảo HS, đồng minh HK nhất quyết không can dự,
Tổng thống không có mặt ở thủ đô, thì trong khoảng thời gian này tại Sài Gòn dự
luật sửa đổi hiến
pháp để cho Tổng
thống Thiệu và
các vị Tổng thống kế nhiệm được quyền ra tranh cử
nhiệm kỳ thứ ba và
nhiệm kỳ Tổng
thống sẽ được kéo
dài 5 năm thay vì
4 năm [48]do phe thân hành pháp soạn thảo và
bảo trợ được đưa
ra thảo luận vào ngày 15/01, cùng ngày HQ 16 phát
hiện tàu TC xâm nhập nhóm Nguyệt Thiềm.
(dự
luật này do Phụ
tá
Đặc biệt Tổng
thống Nguyễn Văn
Ngân
soạn thảo với
sự ủng hộ
của Chủ tịch
Thượng viện Trần
Văn Lắm và Chủ
tịch Hạ nghị
viện Nguyễn Bá Cẩn)
[61]
Và
ngay trong ngày 19/01, giữa
lúc đang
xảy ra trận hải chiến
và tiếp theo là quyết
định rút lui của Đại tá
Ngạc, bỏ lại
HQ 10 làm bia cho tàu TC
…thì ngay tại Sài Gòn lưỡng
viện quốc hội đang
tranh cãi và sau đó đã
thông
qua dự luật này!
Có phải chăng tham
vọng cá nhân và quyền lợi đảng phái đã chi phối hoạt động của các cấp lãnh đạo
VNCH, khiến họ không quan tâm mấy đến tình hình HS, ngay cả trong lúc giặc đến
nhà cũng không thấy Tổng thống hoặc Thủ tướng lên tiếng ngỏ lời tường trình sự
việc cùng khích động lòng yêu nước của dân quân. Sau khi HS mất vào tay TC cũng
chẳng một lời giải thích lý do hoặc loan báo các phương thức hành động sắp đến,
và khi chiến hạm đã chiến đấu sống còn với giặc thù Trung Cộng về đến Sài Gòn
cũng không thấy giới chức cao cấp nào ra tiếp đón.
Và cũng thật khó hiểu khi vào
ngày 22/01, trong thông điệp gởi đến toàn dân nhân dịp tết Nguyên Đán, Tổng
thống Thiệu đã
không có một
lời nào đề
cập đến trận
hải chiến và cũng không lên tiếng tố
cáo TC đã dùng vũ lực
chiếm đoạt
quần đảo Hoàng
Sa của VNCH. Trong khi đó ông
lại nói về
đạo luật bầu
cử mà quốc
hội đã thông
qua vào ngày
19/01/1974 !!!! [62]
Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu ngày 14 tháng
3-1974, phát biểu trước Thượng nghị viện:
“Sự yên lặng của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu trong bản thông điệp ngày 23-1-1974, nghĩa là 4 ngày sau khi xảy ra sự xâm lăng quần đảo Hoàng sa, chỉ chứng tỏ rằng Hành pháp chưa tìm ra đường lối rõ rệt để trình bày vấn đề này trước quốc dân.”
(trích từ ‘Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày 2 tháng giêng 1975’)
Theo như lời Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ-Thoại: “Thành
ra nhiệm
vụ chính là làm sao cho miền Nam không bị tràn ngập hơn là những các hải đảo ngoài khơi cần phải có lực lượng để chiếm đóng.” [52]
Và tiếp theo trong lần phỏng vấn khác: “Nhiệm vụ
của Hải quân lúc đó nhằm vào việc chống xâm nhập của tàu thuyền từ miền Bắc để
đưa quân và vũ khí vào Nam hơn là bảo vệ chống sự tấn công của một quốc gia khác để
xâm
chiếm lãnh thổ của ta.”
[51]
Có lẽ giới lãnh đạo miền Nam đã
ngủ quên khi không nhận thức ra rằng “quốc gia khác” ở đây chính là kẻ thù truyền
kiếp Trung Cộng chỉ ở cách ta không đầy 75 km (từ đảo Phú Lâm đến đảo Duy Mộng).
Đưa ra lập luận này để biện minh
cho việc mất Hoàng Sa vào tay Trung Cộng cũng không khác chi lắm với lời phát
biểu của Nghị sĩ và đồng thời là chủ nhiệm nhật báo Chính luận Đặng Văn Sung
khi ông cho
là: “mất
Hoàng Sa không giống như mất
Huế.” [63]
Như vậy đã cho thấy một điều hiển
nhiên là chánh quyền VNCH đã coi nhẹ việc phòng thủ Hoàng Sa hơn là lãnh thổ
nội địa.
Thật đau
lòng
thay cho tổ
quốc Việt Nam khi trong năm 1958, Thủ tướng miền Bắc Phạm Văn Đồng,
qua văn
thư đã công nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Cộng và qua lời
giải thích trước quốc dân của cơ quan Tuyên giáo Trung ương
Cộng sản Bắc Việt: “Các
đồng chí yên
tâm. Hoàng
Sa trong tay Quân
Giải Phóng Trung quốc anh em của ta là tin đáng
mừng. Còn hơn
là nằm
trong tay bọn
Mỹ - Ngụy, kẻ
thù không
đội trời
chung của
chúng ta” [64]
Trong khi đó, tại miền Nam, chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa qua những năm tháng chểnh mảng trong
việc củng cố và phòng thủ các hải đảo thuộc nhóm Nguyệt Thiềm và khi giặc đến nhà đã không kịp thời nhận thức được mối hiểm họa cấp bách để tìm phương cách đối phó hữu hiệu, mang đến hậu quả là kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng đã chiếm trọn vẹn quần đảo Hoàng Sa kể từ ngày 20 tháng 1 năm 1974.
_______________________________________________________________________________________________________________________
PHẦN DẪN CHỨNG
a.- Xác định ngày, giờ HQ 16 rời Đà Nẵng
- Sau 4-1975: vì dựa vào ký ức nên trong hai quyển sách tham
khảo [38] [48] và trong hầu hết các bài viết về hải chiến HS đều cho là HQ 16
rời Đà Nẵng vào ngày 15/01.
Tuy nhiên, trong tham khảo [4] (không cho biết lấy từ tài liệu nào) đã
viết rất chi tiết “Ngày 14 tháng 1 năm
1974 HQ 16 rời Đà Nẵng đi Hoàng Sa hồi 18:00H” và [49] (dựa theo [4])
cho là “Ngày 14/1/1974 BTL/VIDH gởi HQ 16 đi công tác thăm dò tình hình Hoàng
Sa.”
- Trước 4-1975: “Chiều
ngày 15/01/1974, một ghe đánh cá Trung cộng chở người đến cắm cờ và dựng lều
lên đảo Cam Tuyền (Robert) thuộc quần đảo Hoàng Sa.” [42]
Về phía TC tài liệu tham khảo [43]
đã xác nhận sự hiện diện của HQ 16 trưa ngày 15-1.
Dẫn chứng [42] [43] xác nhận HQ 16 phát hiện tàu đánh cá TC trưa ngày 15/01 phù
hợp tham khảo [41] từ nhật ký hành quân TTHQ/HQ: “ngày 14/01 chiến hạm HQ 16
thuộc HQVN rời Đà Nẵng lúc 17:50H.”
Do vậy, có thể khẳng định là HQ 16 rời Đà Nẵng vào chiều ngày 14/01 lúc
17:50H.
b.-Xác định ngày, giờ HQ 16 phát hiện tàu đánh
cá TC
Hoàn tất công tác đưa toán 7
người lên đảo, HQ 16 trở ra thả trôi gần đảo Cam Tuyền. HQ Đại úy Đào Dân diển
tả trong bài viết: “… Tôi nhận quart trưa 1200 - 1500H. Không có việc gì làm,
chỉ theo dõi tình trạng trôi của tàu…Bỗng tôi chú ý ở trước mặt đảo Robert,
ngang hông chiến hạm, một chiếc tàu đang lửng lơ bên cạnh đảo. Chiếc tàu nhỏ,
cỡ bằng những chiếc tàu đánh cá Ðài Loan…Tàu lại sơn màu
tối, như màu ô-liu, phía đuôi có treo cờ
tuy không trông rõ màu sắc… tôi cho lệnh giám lộ viên đánh đèn để hỏi và
đồng thời cho nổ máy…và khi tàu đến gần hơn, nền cờ đỏ và 5 ngôi sao vàng ở ngay
góc...” [34]
Từ các dẫn chứng trên xác nhận là HQ 16 đã phát hiện tàu đánh cá TC số 402 vào lúc 2 giờ 43 phút trưa ngày 15-1 và đã báo cáo về BTL/V1DH lúc 5 giờ chiều cùng ngày.
(Trong phần trả lời ký giả Tuyết Mai, ĐĐ Thoại cho biết: “… Đêm 16 Tháng 1, trong công tác hải quân thường lệ, tôi được báo cáo có nhiều ngư thuyền lạ và có dấu hiệu của một vài hoạt động trên đảo.” trích trong “Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ-Thoại Nói Về Hải Chiến Hoàng Sa”
c.-
Xác định lệnh và chỉ thị trong hệ thống chỉ huy cao cấp
• Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu: đến BTL/VIDH sáng 16/01, viết thủ bút ra
lệnh cho PĐD HVK Thoại TL/VIDH biện pháp đối phó với tàu TC. ĐĐ Thoại cho đánh
máy lại và phái SQ mang tay về Sài Gòn trong cùng ngày để trao cho Văn phòng Thủ
tướng Trần thiện Khiêm và BTL/HQ [51].
Gặp TL/HQ trong ngày 18-1 tại Đà
Lạt, nhưng không có chỉ thị nào cho ông.
Gọi điện thoại vào TTHQ/VIDH sáng
ngày 19-1 [33].
• Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm: họp Hội đồng Nội các ngày 17/01 (tham
khảo [4] và [51] viết chiều ngày 16/01, điều này không hợp lý).
Không rõ trong buổi họp có ai, nhưng NT Vương Văn Bắc xác nhận là: “Tôi không nhớ có một phiên họp của Nội Các
VNCH vào ngày 17 Tháng Giêng 1974 hay không, nếu có thì phiên họp ấy đã đề cập
đến những vấn đề gì và đưa ra những quyết định nào liên quan đến vụ Hoàng Sa.”
Phái đoàn HQ có Đề đốc Trần Văn
Chơn TL/HQ và HQ Đại tá Đỗ Kiểm với nhiệm vụ Thuyết trình viên. Không có chỉ thị nào cho Hải quân sau buổi
thuyết trình.
• Đại
tướng Cao Văn Viên TTMT/QL/VNCH: đứng ngoài
• Trung tướng Ngô Quang Trưởng TL/QĐI:
đứng ngoài
• Đề đốc Trần Văn Chơn TL/HQ: (xin
xem bài Đề đốc Trần Văn Chơn và hải chiến Hoàng Sa)
• Đề đốc Lâm Ngươn Tánh TLP/HQ:
nhận chỉ thị của TL/HQ ra Đà Nẵng: “để theo dõi cuộc chiến HS.” Có mặt ở Đà Nẵng
vào chiều ngày 19/01 lúc bấy giờ trận hải chiến đã kết thúc. Ông không biết gì
về “Lệnh Hành quân Trần Hưng Đạo 47.” [51]
• Phó
Đề đốc Diệp Quang Thủy TMT/HQ: theo HQ Đại tá Đỗ Kiểm
trong "Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer's War" thì
chính ĐĐ Thủy đã ra lịnh khai hoả:
["Well then, give
them the order," said the chief of staff, breaking into a big smile.
"What order, sir?" asked Kiem.
"Shoot!" said the admiral.”]
Tài liệu từ TTHQ/BTL/HQ xác nhận là lúc 09:27H, TL Phó/ HQ ra lịnh: “lực lượng
đặc nhiệm giữ đầu cầu và sử dụng trọng pháo bắn vào tàu địch. Đây là lệnh các
anh phải thi hành.”(trong thời gian này ĐĐ
Tánh không có mặt ở Sài Gòn, do vậy ĐĐ Thủy đã được chỉ định Xử lý Thường vụ
chức vụ TLP/HQ)
Nhà báo Giao Chỉ trong bài “Lệnh khai hỏa trận Hoàng Sa 34 năm về trước” có
viết như sau: “… Bây giờ đại tá Hà văn Ngạc không còn nữa. Người viết chuyện tò
mò muốn tìm hiểu đành phải suy nghĩ rằng trước khi nổ súng ông đã gọi Bộ Tư
lệnh Hải quân để xin phép trước. Qua
đô đốc
Diệp quang Thủy ông
được lệnh Sài
Gòn. Sau đó ông cẩn thận xin lệnh Ðà Nẵng qua đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và
lệnh khai hỏa bắt đầu.”
• Phó
Đề đốc Hồ Văn Kỳ-Thoại TL/VIDH: xem bài “THỦ BÚT TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN
THIỆU TRONG HẢI CHIẾN HOÀNG SA”
• HQ Đại tá Đỗ Kiểm Tham mưu phó Hành quân
BTL/HQ:
“… Ông Thủ tướng Khiêm lúc bấy giờ không nói gì hết, chỉ nói là sẽ trình lên
Tổng thống thôi.” [51]
Ngoài ra ông viết trong "Counterpart,
A South Vietnamese Naval Officer's War": “Vùng I thông báo
BTL/HQ ở Sài Gòn; BTL bắt đầu họp với Tổng Thống Thiệu, Nội Các của Thiệu….”
NHẬN XÉT:
- Tổng thống Thiệu lúc bấy giờ đang
ở Vùng
1 thăm viếng và ủy lạo các chiến sĩ nhân dịp tết Nguyên Đán làm thế nào có thể họp với Bộ Tư lệnh Hải quân?
- Không tìm thấy tài liệu chứng minh đã có buổi
họp NỘI
CÁC.
THAM
KHẢO
- [1] Lt. Commander Ulysses O. Zalamea. “ Eagles and Dragons at Sea” Naval
War College Review, Autumn 1996.
- [2] Điện văn số 326202 ngày 01/02/1974 của ban thẩm vấn Gerald Kosh gởi
cho Tư lệnh Lực lượng HK tại Thái Bình Dương.
a.- Gerald E. Kosh,
viên chức DAO (Defense Attaché Office) thuộc toà Tổng Lãnh sự/HK tại Đà Nẵng.
Tháp tùng HQ 16 ra HS và bị TC bắt trong ngày 20/01/1974.
b.-
HQ Trung úy Lê Văn Dũng (K.20/SQHQ/NT) là Sĩ quan chỉ huy toán chiến sĩ cơ hữu 14
người thuộc HQ 4 đã được đưa lên phòng thủ đảo Cam Tuyền.
- [3] Phiếu trình ngày 21/01/1974 của INR (Intelligence and Research )
thuộc BNG/HK.
- [4] Tuyển tập Hải sử “Hải chiến
Hoàng Sa” Tổng hội/ HQHH ấn hành 2004 – USA
- [5] Ang chen Guan. “The South China Sea dispute re-visited” Institute
of Defence and Strategic Studies Singapore – August/1999
- [6] Vương Văn Bắc. “Nhớ lại và
suy ngẫm về vụ hải chiến Hoàng Sa”, nhật báo Nguời Việt online Saturday,
February 21, 2009.
- [7] Điện văn số 028978 ngày 30/01/1974 của Tòa Lãnh sự HK tại Hong
Kong gởi BNG/HK.
- [8] Thềm Sơn Hà. “Đại cương về
quần đảo Hoàng Sa” đăng trong www.hqvnch.net.
22 tháng 2-1959 TC đưa ngư phủ có võ trang xâm nhập bất hợp pháp đảo
Cam tuyền, Quang Hòa và Duy Mộng nhưng đã bị HQ/ VNCH kịp thời ngăn chận và đã
bắt giữ 82 ngư phủ TC (Lưu Văn Lợi), (Theo BNG/HK có khoảng 50 người đã bị bắt
giữ trong khu vực đảo Quang Hòa),(www.military.cn/html/00/t-38000.html thì Trợ chiến hạm Nguyễn Văn
Trụ HQ 225 đã bắt giữ 5 tàu đánh cá và 69 ngư phủ TC) .
- [9] Lee Lai-to. “The PRC and
the South China Sea” Feb 1977- VOL. XV No. 2. The Vietnam center and archive (www.Vietnam.ttu.edu).
- [10] Bản nghiên cứu mật
ngày 20/07/1971 của BNG/HK
- [11] Điện văn số 121269 ngày
16/07/1973 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- [12] Điện văn số 0587 ngày 21/01/1974
của Đại sứ Martin gởi Brent Scowcroft (NSC – National Security Council)
- [13] Intelligent Report 7283
ngày 17/08/1956 của BNG/HK
- [14] Điện văn số 118696 ngày
13/12/1973 của Tòa Tổng Lãnh sự/HK/Hồng Kông gởi BNG/HK.
- [15] Biên bản buổi họp
ngày 01/02/1974 tại văn phòng James R. Schlesinger Bộ trưởng BQP/HK.
- [16] Jan Vinar. “The
Paracel Islands and Peking”, Deutsche Zeitung, 25 January 1974.
- [17] Thềm Sơn Hà. “Hành quân
chiếm đóng đảo Nam Yết tháng 8/1973” đăng trong www.hqvnch.net
- [18] Trần Hữu Châu. “Phúc trình về công tác nghiên cứu phốt phát tại
quần đảo Hoàng Sa” Tập san Sử địa số 29 – Sài Gòn 1975.
- [19] Văn thư ngày 30/10/1973
của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK.
- [20] Foreign Relations of the
United States 1955-1957.
- [21] Foreign relations of the
United States- Vol XVIII
- [22] Foreign Relations,
1969-1976
- [23] Điện văn số 034409 ngày 05/121973
của TĐS/HK/Singapore gởi BNG/HK
- [24] Điện văn số 113809 ngày
12/12/1973 của BNG/HK gởi TĐS/HK/Singapore
- [25] Điện văn số 009980 ngày 17/01/1974 của BNG/HK gởi TĐS/HK/SG
- [26] Điện văn số 028302 ngày 20/01/1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK/SG
- [26a] Điện văn số 015391 ngày 23/01/1974
từ BNG/HK gởi TĐS/HK/SG
- [27] Điện văn số 093435 ngày 07/02/1974 từ BNG/HK gởi TĐS/SG.
- [28] Trần Thế Đức. "Hoàng Sa
qua những nhân chứng." Tập san Sử địa số 29 – Sài Gòn 1975.
- [29] Trần Kim Diệp. "Bên lề trận hải chiến Hoàng Sa."
Bản tin Tình Đại dương (khóa 17 Sĩ quan Hải quân Nha Trang) tháng 7/2004. HQ Đại úy Trần Kim Diệp, Trưởng phòng Tình báo (P2) Bộ Tư
lịnh Hải quân Vùng I Duyên hải nhận lệnh TL/HQ/VIDH tháp tùng HQ 16 đi công tác
đảo Hoàng Sa. Đại úy Diệp đã có mặt trên HQ 5 trong lúc xảy ra trận hải chiến.
- [30] Thanh Phong. “Bí ẩn trận
Hoàng Sa” bài phỏng vấn Thiếu tá Phạm Văn Hồng, nhật báo Viễn Đông, ngày 22/12/2009.
Thiếu tá Phạm Văn Hồng là SQ Lãnh thổ/Phòng 3/BTL/QKI, được chỉ định ra
công tác HS cùng 4 SQ và HSQ Công binh với nhiệm vụ nghiên cứu việc thiết lập
phi trường trên đảo HS. Ông và toán Công binh bị TC bắt trong ngày 20/1/1974.
- [31] Vietnam.net
“Hoàng Sa trong ký ức của những chiến binh”, 18/03/2010.
- [32] Oscar Fitzgerald. “Interview with Commodore Ho Van Ky Thoai, VNN -
Naval Historical Center (NHC) 20 September 1975.
- [33] Lê Văn Thự (HQ Trung tá Hạm
trưởng HQ 16). "Sự thật về trận hải chiến Hoàng-Sa." Calitoday March
08/2004.
- [34] HQ Đại úy Đào Dân. “HQ 16
và trận hải chiến Hoàng Sa” Nguyệt San Đoàn Kết - Austin, TX
(Khi xảy ra trận hải chiến, ông
mang cấp bậc HQ Trung úy)
- [35] Lê Văn Thự (HQ Đại
úy Trung tâm trưởng TTHQ/HQ/V1DH). “Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị
Tư Lệnh Hải Quân” www.hqvnch.net.
* Trong những lần nói chuyện qua điện thoại về Hoàng Sa, HQ Đại úy Lê Văn
Thự có kể lại là ông rất đau lòng khi phải nói dối với Đại tá Ngạc là phi cơ
đang trên đường bay ra yểm trợ để cho ông an tâm.
- [36] Điện văn số 0585 ngày
20/01/1974 của Đại sứ Martin gởi Brent Scowcroft (NSC - National Security
Council)
- [36a] Điện văn số 028302 ngày
20/01/1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- [36b] Điện văn số 010217 ngày
31/01/1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- [37] Điện văn số 325606 ngày
01/02/1974 của ban thẩm vấn G. Kosh gởi cho Tư lịnh/LL/HK tại Thái Bình Dương.
Có lẽ vì được thẩm vấn ngay khi về đến căn cứ Không quân Clark (Phi
Luật Tân) nên có một số chi tiết Kosh thuật lại không được chính xác, chẳng hạn
như HQ 16 rời Đà Nẫng ngày 13/1 và chỉ có một máy khiển dụng.
- [38] Vũ hữu San & Trần đỗ Cẩm. “Tài liệu Hải Chiến Hoàng Sa”
ấn hành 2004-USA.
Đào Dân có đoạn viết về cú húc
này như sau: “HQ 4 nổ máy đâm thẳng ngang hông tàu địch, đẩy nó ra khơi, vì vận
tốc chậm, có lẽ khoảng 2 máy tiến 1, nên không có thiệt hại nào cho bên địch.” [34]
- [39] Công điện số
288592 ngày 15/01/1974 của DAO/Sài Gòn
Sau khi cơ quan DAO thông báo
HQVN là họ không biết rõ trên đảo Cam Tuyền có trọng pháo của TC, giới chức hữu
trách HQVN yêu cầu HQ/HK cung cấp phi cơ không thám P3, DAO khuyên HQVN nên yêu
cầu phi cơ không thám của Không quân VN.
Không tìm thấy tài liệu chứng tỏ
BTL/VIDH có yêu cầu BTL/SĐI/KQ cung cấp phi cơ không thám từ ngày 15/1 cho đến
sáng ngày 19/1 trước khi lực lượng Hải kích và Biệt hải đổ bộ lên đảo Quang
Hòa.
- [40] Thềm Sơn Hà. “Trung Cộng
đổ bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa tháng 1/1974” đăng trong www.hqvnch.net
dịch từ tài liệu: "Chinese Amphibious Assaults in the Paracel Archipelago."
December 27, 1974 của Bộ Lục quân HK (Department of the US Army).
Tài liệu này do chính tác giả đã tìm được và đã nhờ một người bạn đến
tận thư viện Lục quân HK để lấy ra. Gần đây có website phổ biến tài liệu đã được
đánh máy lại từ nguyên văn.
- [41] Công điện thượng
khẩn số 924 ngày 21/01/1974 của TĐS/SG gởi BNG/HK.
- [42] Tổng cục Chiến tranh Chánh
trị/Cục Tâm lý chiến “Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của VNCH” ấn
hành 1974
- [43] Thềm Sơn Hà. “Tuyên
cáo chính thức của TC về biến cố Hoàng Sa” trong www.hqvnch.net
- [44] Điện văn số 098104 ngày 26/01/1974 của TĐS/HK/Manilla gởi BNG/HK
- [45] Quốc Tuấn. “Nhận xét về các luận
cứ của Trung Hoa liên quan tới vấn đề chủ quyền hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa” Tập san Sử địa số 29 - Sài-Gòn 1975.
Ngoài ra Đinh Phan Cư “Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa”, Luận văn
tốt nghiệp Học viện
Quốc gia Hành chánh -1972”, trang 105, viết như sau:
“Ngày 22 tháng 2 năm 1959…, nhiều ngư phủ
tới đánh cá tại vùng Nguyệt Thiềm, đổ bộ lên các đảo
Cam Tuyền, Duy Mộng, Quang Hòa dựng lều
trại.
Chính phủ VNCH liền phái tàu hải quân bỏ neo giữa biển, cấm đánh cá và xâm nhập
hải phận Hoàng Sa.
Sau đó, Việt Nam Cộng Hòa đã áp dụng biện
pháp cứng rắn, bắt 80 ngư phủ nói trên đưa về Đà Nẵng… Tuy nhiên dường như trong số các ngư phủ này, không phải tất cả đều
dốt nát, một số người biết đọc, biết viết,
lại biết vẽ bản đồ và đã từng bị Việt Nam bắt giữ hai ba lần rồi.”
- [46] Sơn Hồng Đức “Thử khảo sát về quần đảo
Hoàng Sa” Tập san Sử địa số 29 – Sài Gòn 1975.
- [47] Chi-kin
Lo. “China's Policy Towards Territorial Disputes: The Case of the South China
Sea
Islands” Routledge-September 13, 1989.
- [48] Điện văn số 116390 ngày
16/01/1974 của TĐS/SG gởi BNG/HK.
Tổng thống Thiệu thăm Quân đoàn I
ngày 15 và 16/1, Quân đoàn II ngày 17 và 18/01. Sáng ngày 19/01, ông rời Đà Lạt
tiếp tục thăm viếng Quân đoàn III.
- [49] Điện văn số 046612 ngày
22/01/1974 của TĐS/SG gởi BNG/HK.
- [50] Hồ Văn Kỳ-Thoại.
“Can trường trong chiến bại” USA_5-2007.
Trả lời câu hỏi trong tham khảo [4], ĐĐ Thoại
đã nói về thủ bút của TT Thiệu: “Tài liệu đó nói đại ý chỉ thị tôi sử dụng mọi
biện pháp từ khuyến cáo đến vũ lực nếu cần để mời chiến hạm và quân lính ngoại
quốc ra khỏi lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam.”
Theo [36] thì ĐĐ Thoại cho SQ mang thủ bút này về BTL/HQ ngày 16/1,
nhung theo TL/HQ thì ông đọc lệnh này khi ra Đà Nẵng trưa ngày 19-1, lúc bấy
giờ trận hải chiến đã chấm dứt. Ông không tiết lộ nội dung thủ bút.
- [51] Ủy ban Nghiên cứu trận Hải chiến Hoàng Sa.
“Hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974”- TH/HQ&HH/VNCH
tháng 9-2010, USA.
- [51a] Đặc san Lướt Sóng. “Quần
đảo Hoàng Sa và chủ quyền VNCH” số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa, Cục Tâm lý chiến/BTL/HQ ấn hành năm 1974.
- [52] Trần Nhật Phong. “Khai hỏa
để chứng minh chủ quyền” BBC ngày 20/01/2014.
- [52a] Bộ Quốc phòng HK tài liệu số
21587 ngày 21/01/1974.
- [52b] Bộ Quốc phòng HK tài liệu số 21599 ngày 22/01/1974
- [53] Thềm Sơn Hà. “Phân tích
khả năng của VNCH và TC” trong www.hqvnch.net
- [54] Điện văn
số 025483 ngày 19/01/1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- [55] Điện văn số 028322 ngày
20/01/1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- [56] Điện văn số 026911 ngày
19/01/1974 của BNG/HK gởi TĐS/SG.
- [57] Điện văn số 026265 ngày 19/01/1974 của TĐS/SG gởi BNG/HK.
- [58] Công điện ngày 19/01 lúc 09:50H
của TL/Đệ thất Hạm đội/HK
- [59] Điện văn số 924 ngày 21/01/1974 cuả TĐS/HK/SG gởi BNG/HK.
- [60] Điện văn số 070943 ngày 23/01/1974 của BNG/HK gởi TĐS/HK/SG.
- [61] Văn thư ngày 10/01/1974 của
TĐS/HK/SG phân tích về dự luật Tu chỉnh Hiến pháp.
- [62] Điện văn số 072480 ngày
24/01/1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- [63] Điện văn số 076475 ngày 06/02/1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
- [64] Bùi Tín ‘Lời xin lỗi chân thành,
món nợ 35 năm đến hồi phải trả !’ viết riêng cho VOA Thứ Ba, 20 tháng 4-2010)
Chú thích:
*** Trong tham khảo [51] có một câu hỏi tương tự đã được đặt ra
với ĐĐ Thoại, nhưng không được ông giải đáp thỏa đáng. Và cơ may giữ lại các
đảo trong nhóm Nguyệt Thiềm (trừ Đảo Duy Mộng và Quang Hòa) vẫn còn khả thi nếu
như TL/HQ không hủy hủy bỏ lệnh chỉ thị HQ 4 và HQ 5 trở lại đảo Hoàng Sa cố
thủ (2 chiến hạm này nhận được lệnh vào lúc 14:15H) [4].
**** Cần viết thêm là mặc dù HK đã thể hiện một cách dứt khoát ý định
không can dự, nhưng sau đó vào ngày 22/01/1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn
gởi thơ đến Tổng thống HK Nixon để yêu cầu HK “…hết lòng hỗ trợ về vật chất và chánh trị cần thiết” bất chấp lời
ngăn cản của Đại sứ Martin. (trích từ “Thư TT Nguyễn Văn Thiệu gởi TT Nixon” trong
www.hqvnch.net.
No comments:
Post a Comment