Bài nói chuyện trong
buổi ra mắt sách ‘’Sự thật Hải chiến Hoàng Sa" của Thềm Sơn Hà ngày 11
tháng 1 năm 2015
Trích từ Facebook của HQ Đại úy Đào Dân
Kính thưa ông cựu thứ trưởng, kính thưa quý liệt vị quan khách, kính thưa quý niên trưởng, kính thưa quý chiến hữu và kính thưa tất cả các bạn.
Tôi là một cựu sĩ quan Hải Quân, xuất thân khóa 18 của Hải Quân
Nha trang, là khóa đàn em của Niên trưởng Thềm Sơn Hà, là tác giả của tập sách
“Sự thật Hải chiến Hoàng Sa 19 tháng 1 năm 1974 ”mà một số quý vị đang cầm trên
tay.
Sở dĩ mà tôi có được cái vinh dự hôm nay đứng đây nói chuyện với
quý vị là vì tôi đã tham dự vào trận hải chiến này, dù một cách tình cờ. Tình
cờ bởi vì chỉ chưa đầy hai tháng trước trận chiến, Sau khi tốt nghiệp khóa 2/73
Trung cấp Hải Quân ở Trung Tâm huấn luyện Hải Quân Sài gòn thì đáng lẽ theo thứ
tự ưu tiên, tôi được quyền chọn một đơn vị khác, không tác chiến, và ở gần Sài
Gòn.
Nhưng vì lòng quyến luyến với quê hương cày
lên sỏi đá của tôi mà tôi đã chọn HQ16, Tuần dương hạm Lý thường Kiệt, một đơn
vị hải hành tác chiến, có thể sẽ đi tuần tiễu tại vùng I Duyên hải để mình còn
có cơ duyên mà thăm lại thân nhân và bạn bè mình ở đó. Một trận chiến mà tôi đã
tham dự một cách tình cờ như vậy lại trở thành một trận chiến lịch sử. Dù tầm
vóc của nó không lớn, và thời gian của trận chiến cũng không kéo dài nhưng vì
đây là một cuộc chiến chống ngoại xâm, mà những tên giặc ngoại xâm đó là kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc Việt Nam trong suốt hơn hai ngàn năm, kể từ cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng, và cho đến hôm nay.
Dù thời gian qua đi, trăm năm sau, ngàn năm sau, trận chiến này
vẫn sẽ được ghi khắc vào trong lịch sử bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt, để cho
con cháu chúng ta nhớ rằng, Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Và sự hy sinh
của những chiến sĩ Hải Quân của chúng ta sẽ không bao giờ uổng phí. Và chúng
ta, hôm nay, nhân cùng nhau ngồi đây, xin quý vị cùng chúng tôi, hãy trải lòng
mình trong một vài giây im lặng để thành kính tưởng nhớ đến anh linh của 74 chiến
sĩ Hải Quân của chúng ta đã hy sinh vì tổ quốc… Chờ một chút). Xin cám ơn quý
vị.
Riêng cá nhân tôi, vì tham dự vào trận chiến lịch sử đó một cách
tình cờ, nên tôi vẫn tự cho mình chỉ là môt kẻ đã “lạc đường vào lịch sử“.
Nhưng chuyện đi lạc này quá nguy hiểm đến nỗi suýt nữa tôi đã đi luôn, hay nói
theo cách bình dân thì là, đi vào cõi chết. Quý vị nghĩ coi. Tàu trúng đạn,
nước biển vào ngập cả hầm máy, nghiêng 15 độ, đèn đuốc tắt hết chẳng khác gì
con tàu ma, mọi liên lạc với bên ngoài đều bị cắt và cuối cùng là nhiệm sở đào
thoát.
Cả một đài chỉ huy là nơi tôi đang là Sĩ quan hải hành trong
nhiêm sở tác chiến, phút chốc bỗng vắng tanh vắng ngắt, vắng đến rợn người. Một
mình Hạm trưởng Lê Văn Thự, cao lêu nghêu, cầm lấy bánh lái tàu và ra lệnh trực
tiếp xuống hầm lái tay, nơi những nhân viên vạm vỡ nhất đang vất vả bẻ tay lái
theo lệnh của ông. Tôi thì đứng đó, nhìn ông, nhìn chung quanh. Không biết phải
làm gì Sau khi đã ghi vào sổ nhật ký hải hành hàng chữ ngắn ngủi, và cuối cùng:
Nhiệm sở đào thoát.
Chiến hạm đang đi ngoằn nghèo như rắn bò giữa vùng biển đầy bất
trắc, đầy san hô, và cũng đầy đá ngầm, giữa một hạm đội tàu địch có thể đánh
chìm tàu mình bất cứ lúc nào, vì chúng chỉ cách có vài ba hải lý. Nhìn xung
quanh là mấy hòn đảo trở thành vô hồn, còn ngoài kia, là cả một màu xanh biếc
của biển cả, và trên cao, một bầu trời xám ngoét.
Tâm trạng nào còn lại trong tôi lúc đó? Cô đơn, lạc lõng, và
trống rỗng hoàn toàn. Tôi không đến nhiệm sở đào thoát, nơi mọi người có lẽ
đang lui cui bận rộn với công việc chuẩn bị… Chỉ có tôi, ở đây, bên cạnh Hạm
trưởng, chuẩn bị cho một hành trình mới mà tôi chưa biết sẽ đi về đâu. Rời tàu.
Hai tiếng ấy vang lên trong tôi như tiếng chuông gọi hồn, như tiếng gào thét
của lũ ma trơi đang chuẩn bị đưa tôi đi cùng với chúng về nơi vô cùng. Đó chính
là tiếng gọi của thần chết.
Khi ông Đại úy cơ khí trưởng nhô lên khỏi cầu thang và đề nghị
với Hạm trưởng hủy bỏ nhiệm sở đào thoát vì hầm máy đã bị cô lập hoàn toàn,
chiến hạm tuy bị nghiêng nặng nhưng đang vị thế ổn định, tôi như người thoát
khỏi cơn mơ. Vị thần cứu rỗi đã đến đúng lúc, kịp thời để đưa tôi trở về với
cõi trần thế. Và bao hy vọng bỗng trở về, tràn ngập.
Trở lại với sáng ngày 18, HQ5 từ Đà Nẵng đến nhập vùng để tăng
cường lực lượng. Cùng đi trên HQ5 là Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy
trưởng hải đội 3 tuần dương trực thuộc Bộ tư lệnh Hạm đội, được chỉ định làm Tư
lệnh lực lượng đặc nhiệm Hoàng Sa. Sự hiện diện của một sĩ quan cao cấp nghe
nói đã từng tu nghiệp ở một đại học hải chiến Hoa kỳ làm nức lòng mọi người.
Có lẽ để thực hiện cái sở học của mình nên sau khi nhập vùng và
nhận quyền chỉ huy, đại tá Ngạc đã hội ý với các Hạm trưởng qua máy truyền tin
rồi, hình thành một kế hoạch mà tôi tạm gọi là “phô diễn lực lượng” sẽ khởi sự
vào buổi chiều. Có lẽ, kế hoạch chỉ là để thăm dò khả năng của các chiến hạm
địch nên dù mọi chiến hạm đều vào nhiệm sở tác chiến, nhưng các khẩu pháo được
lệnh quay nòng lên cao 45 độ như thường ở trong tư thế dàn chào mỗi khi tàu rời
bến Bạch Đằng.
Chúng tôi thực hiện kế hoạch phô diễn với tất cả lòng hăm hở
được dịp thực tập các màn vận chuyển chiến thuật mà từ lâu đã bỏ quên sau khi
rời quân trường. Những ý niệm về đội hình hàng dọc, hàng ngang; những màu cờ
golf, cờ code; những quay phải quay trái; những vận tốc cùng hướng đi biểu kiến…tất
cả sẽ được tái tạo trong một buổi chiều đẹp trời, giữa một vùng lòng chảo chật
hẹp đầy san hô và đá ngầm, và, lại đang đối diện thực sự với kẻ thù. Thật là
lãng mạn và quyến rũ.
Lúc đó chúng tôi chưa có ý thức nào về sự nguy hiểm của một cuộc
đụng độ bất ngờ. Chúng tôi, vô tư như một bầy trẻ, lên nhiệm sở tác chiến với
tấm lòng hồn nhiên như khi vác súng ga-răng ra thao-diễn-trường tập cơ bản thao
diễn. Với 3 chiến hạm, trong đó có 2 tuần dương hạm to lớn bệ vệ và một khu
trục hạm nhanh nhẹn oai mãnh, lực lượng chúng tôi trông có vẽ hùng dũng lắm
rồi. Đi đầu là đại tướng tiên phong HQ4 rồi đến HQ16 và Sau cùng là Soái hạm
HQ5 với những khẩu thần công 127 ly, 76.2 ly, 40 ly đang hướng nòng lên trời
xanh, như thách thức với kẻ thù và như kiêu hãnh với chính mình.
Bắt đầu chiến dịch với 3 hàng cờ phất phới trên 3 cột buồm, lồng
lộng trong gió chiều và trong nắng vàng cuối đông. Những dàn radar khổng lồ
đang quay chầm chậm, vừa làm nhiệm vụ trấn thủ, vừa cung cấp dữ kiện để đo
khoảng cách và tìm ra vận tốc của tàu địch. Trên đài chỉ huy, các giám lộ viên
có tay nghề cao nhất đang chờ lệnh và sẵn sàng thực hiện những mệnh lệnh của
Hạm trưởng để truyền tin bằng cờ hiệu và đèn scott giữa các chiến hạm.
Chúng tôi tiến theo đội hình hàng dọc, từ phía nam đảo Hoàng Sa,
trực chỉ 160 độ xuống hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng. Tất cả cùng hai máy tiến
2, cách khoảng 250 mét, đàng hoàng tiến về phía địch như những hiệp sĩ thời
Trung cổ. Khi vừa chạy được 1 hải lý, hai chiến hạm Trung Cộng mang số hiệu 271
và 274 đang nằm im trong vùng biển, cùng nổ máy, tăng tốc rồi theo đội hình
hàng dọc tiến về hướng chúng tôi. Chiến hạm của chúng chạy rất nhanh, đến 28
hải lý/ giờ, (trong khi vận tốc tối đa của chiếc HQ16 cũng chỉ 16 hải lý /giờ).
Chúng để lại đằng Sau những bọt nước trắng xóa và tạo ra những làn sóng bập
bềnh. Tuy nhiên, cả đội hình chúng tôi vẫn bình thản tiến theo lộ trình.
Khi còn cách chúng tôi chừng dưới 1 hải lý, chiếc đi đầu bỗng
quay trái 90 độ, được một đoạn lại quay chữ U, trở lại ngược chiều 180 độ, chạy
chặn ngang trước mũi HQ4. Chiếc thứ hai cũng lặp lại những động thái của chiếc
đầu để rồi cuối cùng cái đường ngang tưởng tượng chúng giăng ra chỉ cách mũi
chiếc HQ4 trong vòng 100 mét. Hoạt động của tàu địch có lẽ làm cho vị Tư lệnh
chiến dịch khó xử.
Không thể sử dụng vũ lực đánh nhau, cũng không thể tiến thêm
được vì sự đụng chạm với vận tốc lớn có thể làm tàu hư hại nặng. Vì nguy cơ
đụng tàu càng lớn nên cuối cùng chúng tôi được lệnh U- turn, quay mũi theo hàng
dọc trở về hướng bắc. Kế hoạch “phô diễn lực lượng” thế là hoàn tất. Không rõ
mục tiêu của vị Tư lệnh là gì và đạt được mấy phần, lũ sĩ quan chúng tôi cảm
thấy hài lòng vì đã làm xong nhiệm vụ mà cũng có thêm một ít kiến thức về
truyền tin cờ đèn và vận chuyển chiến thuật…
“Chúng tôi bị đánh thức dậy lúc hơn 1 giờ sáng vào đêm hôm ấy và
được lệnh tập họp ở phòng ăn đoàn viên. Hầu hết mọi người vẫn còn ngái ngủ nên
phòng ăn tuy đông người mà vẫn yên lặng. Hơn nữa, lần tập họp bất thường giữa
đêm khuya trong cái không khí căng thẳng và đầy thuốc súng này thì ai cũng hiểu
là có chuyện. Thành ra giờ phút chờ đợi này ai cũng lo lắng, nghĩ đến những
điều sẽ xảy ra.
Thời gian chờ đợi Hạm trưởng đến không dài, các cửa phòng đều
đóng kín mít nhưng tôi tự nhiên thấy lạnh. Tôi cố trấn tĩnh. Hai chân đứng dạng
ra, cố trụ lại trên sàn nhà; hai tay thọc vô túi quần rồi rút ra, chống nạnh,
ngẩng cao đầu nhìn mọi người. Tôi che miệng ngáp, rồi móc túi lấy thuốc ra hút.
Hít được khói thuốc vào buồng phổi để thấy mình ấm hơn đôi chút, tôi tập trung
tư tưởng để tự mình thắng được cái lạnh đang xâm chiếm toàn cơ thể. Hạm trưởng
đi vào và tôi đưa tay lên chào rồi hô lớn: Vào hàng, phắc. Tiếng hô vang lên
như tiếng cồng xua đuổi tà ma, quên đi cái lạnh đang gậm nhấm cơ thể.
"Bây giờ Hạm trưởng đang đứng kia, trong cái áo jacket màu
xanh nước biển khoác ngoài bộ quân phục cùng màu, trông có vẻ mệt mỏi. Ông tóm
tắt nội dung lệnh hành quân mà ông vừa nhận được, và ra lệnh cho toàn thể nhân
viên cố gắng chuyển đạn dược từ các kho lên gần các ụ súng, vì sự thiếu hụt
quân số có thể cản trở nhiều cho việc tiếp tế đạn dược trong thời gian lâm
chiến. Lúc này một số khoảng 25 người đi phép và 15 người đã được đưa lên đảo.
Phải mất hơn hai tiếng việc vận chuyển đạn dược mới hoàn tất.
Mọi người - sĩ quan, hạ sĩ quan, đoàn viên - trừ những người
đang đi quart, đều lăn xả vào công việc. Khiêng, bưng, vác. Cả một chiến hạm
rầm rập, tiếng chân người chen lấn tiếng thùng đạn, vỏ đạn chạm vào nhau hay
vào thành, sàn tàu hợp thành một thứ âm thanh hỗn độn. Đèn đuốc được thắp sáng
mọi nơi nhưng tất cả được che chắn cẩn thận để tránh sự nghi ngờ của địch.
Chính nhờ những hoạt động hăng say này mà mọi người quên đi những nỗi sầu muộn,
lo âu, những nỗi sợ hãi, khiếp nhược, cùng những thắc mắc suy tưởng."
Rồi khoảng 5 giờ sáng, sau khi mọi chuẩn bị cho nhiệm sở tác
chiến kết thúc, tôi trở lại phòng ăn đoàn viên, đến câu lạc bộ mua một ly cà
phê rồi cùng một số sĩ quan khác ngồi ngay đó nói chuyện. Không ai trong nhóm
muốn trở về phòng ngủ của mình để một mình đối diện với thực tại. Một cuộc
chiến sắp xảy ra, một cái chết đang đến gần, từ đó sinh ra bi quan rồi có những
cử chỉ, lời nói, hành động có thể làm hạ thấp phẩm giá của mình.
Chúng tôi nói về mọi chuyện, từ nỗi thắc mắc về lệnh hành quân
cho đến những câu chuyện chọc cười vô thưởng vô phạt. Nhưng đã không còn những
tràng cười khoái trá mà chỉ là những cái nhếch mép, lẫn trong đó là sự gượng
gạo. Rồi trở lên phòng ăn sĩ quan, húp từng muỗng cháo nóng mà nhân viên nhà
bếp mang lại. Vừa nuốt xong mấy muỗng cháo, tôi nói với cái giọng nửa đùa nửa
thực:
Gắng ăn đi mấy ông. Không chừng đây là bữa ăn cuối cùng.
Cuối cùng, trước giờ thực sự khai chiến, khi hai chiếc HQ10 và
HQ16 đang vờn nhau với hai chiếc tàu địch trong vùng lòng chảo giữa mấy hòn đảo
của nhóm Nguyệt Thiềm - một cuộc đụng độ cố tình.
Tôi nói cố tình vì khi HQ16 di chuyển về nam theo lệnh Đại tá Ngạc để yểm trợ
cho cuộc đổ bộ các chiến sĩ Hải kích lên đảo của HQ4 và HQ5, một chiếc tàu của
địch có ý định ngăn cản bằng cách đâm thẳng vào chiếc HQ16 với góc gần 90 độ.
Lúc đó, tôi đang theo dõi tàu địch trên đài chỉ huy, đứng ngay
tại vị trí của mũi tàu mà địch đang định đâm vào. Nhìn mũi tàu địch đang lừng
lững tiến về phía mình, cảm giác tôi lúc đó như cô đọng lại, máu như ngừng
chảy, và tâm trí thì bàng hoàng, như không còn cảm giác. Nhưng may mắn thay,
cuộc đụng độ đã không xảy ra vì khi còn cách nhau khoảng hơn 10 mét thì HQ16 đã
quẹo trái hết tay lái, và nhờ vậy mà hai chiếc tàu chạm vào nhau khá nhẹ nhàng
rồi lướt đi song song bên nhau. Cái khéo léo trong lúc vận chuyển của Hạm
trưởng đã cứu con tàu trong gang tấc.” Hết cắt.
Kính thưa quý vị, những gì xảy ra sau đó, cùng nhiều sự kiện
quan trọng khác tôi xin để dành cho quyển “Sự thật Hải chiến Hoàng Sa” của niên
trưởng Thềm Sơn Hà, thành ra đáng lẽ câu chuyện của tôi đến đây là hết. Nhưng
xin phép quý vị cho tôi vài phút để nói thêm về chuyện của người. Đó là hai
nhân vật thuộc khóa đàn anh của tôi mà tôi nghĩ rất đáng được vinh danh.
Thứ nhất, niên trưởng Nguyễn Thành Trí. Cái chết của niên trưởng
thì ai cũng biết. Anh bị thương do trúng đạn Trung Cộng. Anh xuống bè đào thoát
cùng với gần như tất cả thủy thủ đoàn còn lại. Anh đã hy sinh để cho cá mập khỏi truy tìm
theo dấu máu từ vết thương
của anh. Đó là cái chết cao cả. Cũng như 73 chiến sĩ Hải Quân khác, tổ quốc sẽ
vinh danh anh, và chúng ta ngoài vinh danh còn tưởng nhớ đến anh. Xin thành
kính nghiêng mình.
Khi còn thụ huấn tại quân trường Nha Trang, tôi không biết đến
niên trưởng Trí nhiều, vì anh là người hiền lành nhưng hơi trầm lặng. Tôi không
thấy Niên trưởng xuất hiện trong các buổi quay huấn nhục khóa đàn em, tôi chỉ
nghe nói anh là cầu thủ bóng chuyền đã tham dự các trận cầu quốc gia và quốc
tế. Nhưng tôi lại may mắn cùng thụ huấn khóa 2/73 lớp trung cấp Hải Quân với
anh. Lớp chúng tôi có chưa tới 30 người, nhưng cũng thành lập được một đội bóng
chuyền 6 người mà Niên Trưởng Trí là người sáng lập mà cũng là đội trưởng, còn
tôi là một cầu thủ.
Mỗi buổi chiều sau giờ học, chúng tôi ra sân tập dượt với đội
bóng của Trung tâm huấn luyện Hải quân Sài Gòn. Vì đội chúng tôi hầu hết là
những tay mơ, chỉ mình anh trên sân, chạy dưới, đập trên. Vừa đánh anh vừa hò
hét, chỉ bảo người này, vừa cười ha hả để chọc quê người khác làm cho không khí
của buổi chiều ở nơi có vẻ mô phạm và trầm lặng này không những sôi động hẳn
lên mà còn đầy vẻ vui tươi vì rộn rã tiếng cười. Ai ngờ một con người vô tư và
khoáng đạt như anh mà vừa chia tay nhau chưa đầy hai tháng, anh đã bỏ lại vợ
con, bạn bè, đồng đội, để đi vào cõi vĩnh hằng. Một lần nữa, vĩnh biệt người
anh hùng Nguyễn Thành Trí.
Người thứ hai là niên trưởng Thềm Sơn Hà, người đã tạo ra tác
phẩm : “Sự thật Hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974”. Ở
quân trường, cái họ Thềm kỳ lạ của anh có lẽ làm tôi chú ý, nhưng tôi chỉ biết
nhiều về anh khi anh là hội trưởng hội Hải Quân Cửu Long ở miền Nam California
vào những năm 2000, mà những hoạt động hăng say của anh đã để lại nhiều dấu ấn.
Và khi anh viết những bài về Hoàng Sa đăng trên các đặc san hay trên các trang
mạng Hải Quân, anh thường hỏi tôi một vài chi tiết nhỏ để bổ sung thêm cho bài
viết của anh. Những bài mà Sau khi đọc lại, tôi thấy có quá nhiều dữ liệu và
thông tin mới làm tôi bất ngờ, không hiểu làm sao anh có được chúng, nhất là
những tài liệu từ phía chính quyền Mỹ.
Với một tinh thần cầu thị, niên trưởng Hà muốn đào sâu đi tìm
cho đến tận cùng của sự thật. Một sự thật mà anh cho là bị che phủ bởi những
hào quang của quá khứ, bị chôn vùi do lớp bụi của thời gian, và bị lãng quên do
tuổi đời chồng chất. Anh đã kiên trì làm việc với một thái độ nghiêm chỉnh, ví
dụ, có một số tài liệu mà anh đã phải chờ đợi đến mười năm trời mới có được dù đã được giải mật từ lâu. Chính nhờ vào những tài liệu này,
anh mới có dịp để so sánh, đối chiếu với những hồi ký, những tác phẩm đã xuất
bản bằng tiếng Việt để có những kết luận đầy tính thuyết phục.
Không ai hoài vọng tác phẩm của anh là chân lý, nhưng ít nhất nó
cũng cho người đọc một ý kiến khác, một góc nhìn khác. Và quan trọng hơn hết,
tác phẩm của anh sẽ là một chứng liệu quý giá cho những thế hệ mai sau dùng nó
như là một tài liệu lịch sử. Những gì anh xuất bản hôm nay dưới tên Thềm Sơn Hà
sẽ còn lưu lại cho hậu thế. Vậy thì không có lý do gì để hôm nay chúng ta không
vinh danh niên trưởng Thềm Sơn Hà, phải không quý vị? Xin cám ơn quý vị và xin
kính chào.
ĐÀO DÂN
No comments:
Post a Comment