ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẦN ĐẢO HOÀNG SA
Thềm
Sơn Hà
(Đã phổ biến trong đặc san "Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai - Cửu Long, số 4, tháng 7-2006" do Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm chủ trương.
Tuy nhiên đã có một vài thay đổi trong sách "Sự Thật Hải Chiến Hoàng Sa 19/01/1974" tái bản năm 2022)
Sau những lần điều nghiên, chuẩn bị và giai đoạn cuối
cùng là thao dượt đã diễn ra trong khu vực hải cảng Pei Hai (khu quân sự Kuang
Chou - Quảng Châu), từ khoảng giữa tháng 12 năm 1973 và có thể diễn ra sớm hơn
trong khoảng tháng 9 năm 1973. Ngày 20 tháng 1 năm 1974, Trung Cộng (TC) đã sử
dụng một lực lượng hùng hậu gồm 1 khu trục hạm loại Jiangnan trang bị đại bác
100 ly, 2 tuần duyên hạm loại Shanghai trang bị đại bác 37 ly, từ 4 đến 6 tàu
đánh cá ngụy trang, chuyên chở khoảng 600 quân lính (khoảng 100 lính cho mỗi
tàu đánh cá) [1] thực hiện cuộc hành quân đổ bộ đầu tiên lên đảo Cam Tuyền và
tiếp theo lên đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã cố gắng chống trả, nhưng vì yếu thế, toán
Hải quân trên đảo Cam Tuyền và toán Địa phương quân cùng với nhóm Công binh,
nhóm nhân viên đài Khí tượng và viên chức Mỹ tên Gerald E. Kosh trên đảo Hoàng Sa
đã bị TC bắt làm tù binh.
Như vậy là kể từ ngày 20 tháng 1 năm 1974, quần đảo Hoàng Sa đã hoàn toàn thuộc
về Trung Cộng.
I.- ĐỊA LÝ *
Quần đảo Hoàng Sa còn có tên là Paracel, tên Trung Hoa là Xisha hay
Hsisha. Nguyên thủy chữ Paracel là đến từ chữ Pracel (tiếng Bồ Đào Nha-Portugal)
có nghĩa là đá ngầm. Trong bản đồ do Thornton vẽ vào năm 1703 có tên là I
Pracell [2]. Ngoài ra, có thuyết cho Paracel là tên một thương thuyền Hòa Lan bị
chìm tại khu vực này hồi thế kỷ thứ 16.
Quần đảo Hoàng Sa nằm về phía Đông bờ biển Trung phần Việt Nam trong vùng Biển
Đông, về hướng Tây đường giao thông huyết mạch Singapore - Hồng Kông; cách quần
đảo Trường Sa độ 500 hải lý, chiếm một diện tích khoảng 15.000 km2.
Vị trí trải dài từ kinh độ 111°E (Đông) đến 113°E (từ đảo Tri Tôn đến đảo Linh Côn)
và từ vĩ độ 15°45' N (Bắc) đến 17°00' N (từ đảo Tri Tôn đến Đá Bắc).
Nếu lấy đảo Hoàng Sa làm tiêu chuẩn
thì khoảng cách từ đảo Hoàng Sa đến:
- Đà Nẵng là
367 km [198 hải lý (hl)]
- Cù Lao Ré
là 296 km (160 hl)
- Bờ biển
gần nhất đảo Hải Nam (Trung-Hoa) là 265 km (143 hl) (khoảng cách từ căn cứ hải
quân Yulin trên đảo Yulin
đến đảo Hoàng Sa là 170 hải lý)
- Bờ biển gần nhất Phi Luật Tân là 833 km
(450 hl)
- Bờ biển
gần nhất Đài Loan là 1.148 km (620 hl)
Quần đảo Hoàng Sa gồm các đảo san hô lớn nhỏ, những bãi đá ngầm, bãi cạn, cồn
cát, mỏm đá... Phần lớn các bãi đá ngầm có một số mỏm đá chỉ quan sát được khi
thủy triều xuống thấp, một số lúc nào cũng nhô lên khỏi mặt nước, có mỏm cao
đến khoảng vài feet như đá Lồi (Discovery Reef), đá Bông Bay (Bombay Reef), đá Chim
Yến (Vuladdore Reef).
Trong Lịch triều Hiến chương Loại chí viết năm 1821 của Phan Huy Chú, trong Đại
Nam Thực lục Tiền biên năm 1844 và trong Đại Nam Nhất thống chí viết từ năm
1865 đến 1882 [3] đều cho là quần đảo Hoàng Sa gồm khoảng 130 hòn đảo, bãi cạn
và đá ngầm; điều này rất phù hợp với dữ kiện của cơ quan CIA Mỹ trong The World
Factbook: “Quần
đảo Hoàng Sa gồm
có
130 đảo san hô nhỏ
và
đá
ngầm được chia thành nhóm
Amphitrite ở hướng
Đông
Bắc và nhóm Crescent ở
hướng Tây ...” [4] đã chứng tỏ sự nhận
xét thật tinh tế của các nhà viết sử Việt Nam ngày trước.
Trong số này, khoảng 30 đảo, đá ngầm, bãi cạn và cồn cát đã được đặt tên, đo
đạc và ghi chú trên bản đồ.
Các hòn đảo trong
quần đảo Hoàng Sa nằm trên thềm lục địa tạo nên bởi lớp “humite”, đáy biển
không sâu lắm, trung bình khoảng 200 m (trong vùng Trường Sa, độ sâu đáy biển
thay đổi đột ngột đến cả ngàn mét, trong khu vực Palawan thuộc Phi Luật Tân
chiều sâu đo hơn 5.000 m)
Diện tích tổng cộng khoảng 15.000km2, diện tích đất khoảng 7, 75 km2 [4], lớn nhất là đảo Phú Lâm. **
Không có đảo nào cao quá 15 m (50 ft) tính theo mực nước trung bình, trên đảo
trơ trọi cát và đá, chỉ có 3 đảo Hoàng Sa, Phú Lâm và Linh Côn có nhiều cây cối
nên dễ nhận diện; bao quanh đảo là đá và san hô nằm dưới đáy biển tạo nên sự
khó khăn cho tàu thuyền khi vô gần đảo, khi neo; nước biển quanh đảo trong suốt
có thể nhìn sâu đến 40 m.
Vì có rất nhiều bãi đá ngầm không quan sát được nên tàu thuyền khi hải hành
trong khu vực lúc nào cũng phải thận trọng. Tài liệu nghiên cứu về Hoàng Sa của
Bộ Lục quân Hoa Kỳ vào năm 1945 ghi nhận “Trong thời
tiết tốt và bầu
không
khí
quang đãng các chiến hạm
và
thương thuyền với
sự quan sát từ
trên
cao sẽ không gặp
trở ngại khi hải
hành
giữa các bãi đá ngầm
trong hai nhóm
thuộc quần đảo
Hoàng
Sa.
Trong sương
mù
hay thời tiết xấu
nên
tránh
xa khu vực này trừ
khi tìm
chổ để neo. Có nhiều
xác
tàu
chìm
nơi đây.” [5]
Nhận thức mối nguy hiểm cho tàu thuyền, tháng 8/2014, TC loan báo dự trù xây
hải đăng trên đá Bắc (North Reef), đá
Hải Sâm (Antelope Reef), cồn cát Nam (South Sand), đá Tháp (Pyramid Rock) và đảo Duy Mộng (Drummond Island).
Căn cứ vào sự hợp quần cùng khoảng cách sai biệt giữa các đảo, các nhà địa lý
đã phân chia quần đảo Hoàng Sa thành 2 nhóm Tuyên Đức và Nguyệt Thiềm, cách
nhau khoảng 40 hải lý.
[Sự sắp
xếp các đảo, các bãi đá và cồn cát vào trong nhóm không đồng nhất giữa các nhà
địa lý. Trong
bài viết này tác giả đề nghị dùng kinh độ 112° làm tiêu chuẩn để phân biệt giữa
2 nhóm Tuyên Đức (nhóm Đông: ở phía Đông kinh độ 112°) và nhóm Nguyệt Thiềm
(nhóm Tây: ở phía Tây kinh độ 112°)].
1.- Nhóm Tuyên Đức hay An Vĩnh , nhóm Đông
(Amphitrite Group - Xuande Qundao) [6]
Tên Amphitrite xuất phát từ tên chiến hạm Amphitrite của Pháp vào năm 1701 chở
một nhóm người truyền giáo lần đầu tiên hải hành ngang qua quần đảo Hoàng Sa
trên đường đến Trung Hoa. Nhóm này có hình dạng nửa vầng trăng mở rộng về hướng
Tây. Vùng đá ngầm ở về hướng cực Bắc đang khô cạn dần.
Hoạt động của TC từ năm 1955 trong nhóm Tuyên Đức đã được phi cơ không thám HK
ghi nhận: “Các báo cáo cho là TC đã có mặt trên đảo Phú Lâm trong năm 1950 và
1951 chưa bao giờ được xác nhận, nhưng kể từ tháng 8/1955 sự hiện diện của họ
đã được quan sát trong vô số lần và cũng từ đó họ đã cho xây lên một số toà nhà
cố định và một số cơ sở giải trí cũng như bắt đầu đưa phụ nữ và trẻ con lên
đảo.
Tháng 12/1955 hoặc tháng 1/1956,
TC chánh thức chiếm cứ đảo Phú Lâm.
Ngày 23/5/1956, không tuần Hoa Kỳ
phát hiện khoảng 250 người khai thác phân chim trên đảo [7].
“Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng phía Bắc quần đảo Hoàng Sa vào năm 1955 khi 250
thường dân được đưa lên đảo Phú Lâm để khai thác phân chim. Năm 1958 một đội gồm
40 tàu đánh cá ngoài khơi với 400 ngư phủ bắt đầu hoạt động từ đảo Phú Lâm.
Hàng chục tòa nhà, dường như liên quan đến việc khai thác phân chim, đã được
xây dựng trên bờ biển phía tây bắc của đảo Linh Côn; đồn lũy với một số ít quân
lính đã được thiết lập trên đá Bắc và đảo Linh Côn; bộ chỉ huy quân sự đã được
thành lập trên đảo Phú Lâm.
Một trạm thời tiết, địa điểm thiết lập radar, một đài phát thanh, một
nhà máy điện, và một số (có thể là) địa điểm đại bác phòng không đã được xây
dựng trên đảo Phú Lâm; một hệ thống radar cảnh báo sớm được thiết lập trên đảo
Linh Côn; dàn antenna truyền tin đã được dựng lên trên đảo Đá và đá Bắc.” [8]
Dựa trên hải đồ từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam gồm có các đảo, bãi đá
ngầm, cồn cát như sau:
- Cồn
cát Tây hay đảo Tây (112°13' E - 16°59' N) (West Sand - Xi
Shazhou) là cồn cát lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa.
- Đảo
Cây hay đảo Cù Mộc (112°16' E - 16°59' N) (Tree Island - Zhaoshu
Dao), có tên là đảo Cây vì ngay gần giữa đảo có cây dừa. Đảo được bao phủ bởi
những bụi cây đước chung quanh là bãi cát trắng, diện tích độ 0,1 km2
(366m x 274m)
Giữa đảo Cây và đảo Bắc có lối
thông thương được đặt tên là Zappe
Pass [6] rộng khoảng 0,5
mile sâu khoảng 4,6 m. Tàu thuyền nhỏ có thể sử dụng trong các điều kiện thích
hợp với thời tiết.
- Đảo
Bắc (112°18' E - 16°58' N) (North Island - Bei Dao), diện tích
độ 0,125 km2 (914 m x 137 m).
- Đảo
Trung hay đảo Giữa (112°19' E - 16°57' N) (Midle Island - Zhong
Dao), diện tích độ 0,05 km2 (366 m x 137 m).
- Đảo
Nam (112°19ꞌ E - 16°57ꞌ N) (South Island - Nan Dao), diện tích
khoảng 0,12 km2 (640m x 183m)
- Cồn
Cát Nam hay đảo Gành Nam (112°20' E - 16°56' N) (South Sand - Nan
Shazhou), diện tích khoảng 0,08 km2 (366 m x 229 m).
- Đảo
Đá hay Hòn Đá, đảo Hòn Đá (112°21ꞌ E - 16°51ꞌ N) ( Rocky Island
- Shi dao) là đảo cao nhất trong vùng khoảng 15 m (tài liệu CIA viết là 14 m),
diện tích 0,125 km2 (457 m x 274 m). Đảo ở về hướng Đông Bắc và nằm trên
cùng bãi đá ngầm với đảo Phú Lâm, cách đảo này khoảng ½ mile. Có cây cầu nhân
tạo bằng đất nối liền với đảo Phú Lâm.
- Đảo Phú Lâm
(112°20' E - 16°50' N) (Woody Island - Yongxing Dao): đây là đảo chính yếu của
TC trong quần đảo Hoàng Sa trước và sau trận hải chiến ngày 19 tháng 1-1974.
Từ năm 1974, TC đã phát triển đảo này trên các phương diện du lịch, kinh tế và
nhất là về quân sự.
Đảo Phú Lâm nằm về hướng Đông Nam
đảo Hải Nam, cách khoảng 162 miles (300 km), có hình dáng như con sò, được cấu
tạo bởi san hô và cát nằm trên bãi đá ngầm thật rộng là đảo lớn nhất trong quần
đảo Hoàng Sa. Chiều dài khoảng 1,829 m, ngang 1,097 m, diện tích đảo 2,006
km2. [7]
Không tìm thấy tài liệu viết về chiều cao đảo Phú Lâm, nhưng dựa trên World
Aero Data thì chiều cao phi trường trên đảo Phú Lâm là 14 m (45 ft) [9].
Đảo được đặt tên Phú Lâm vì trên đảo có nhiều bụi rậm và cây cối nhất là cây dừa, chung quanh là bãi
cát trắng. Trên đảo còn di tích ngôi chùa Phật rất xa xưa và một căn trại bỏ
hoang, có đài quan sát khí tượng mang ám số quốc tế 48-859 đã được người Pháp dựng
lên khoảng trong 1943-1950 [10].
Trên đảo có tất cả 5 hải đăng đang hoạt động (www.unc.edu/~rowlett/lighthouse).
- Bãi Bình Sơn (112°12' E - 112°14' E / 16°45'
N - 16°48' N) (Iltis Bank - Yinli Bank), bãi cạn này có chiều sâu từ 10,6 m đến
14,8 m, cách đảo Phú-Lâm độ 7 miles về hướng Tây Nam, dài khoảng 3 miles, rộng
khoảng 1,5 miles.
- Đảo Linh Côn
(112°44' E - 16°40' N) (Lincoln Island - Dong Dao) là đảo lớn thứ nhì
trong quần đảo Hoàng Sa mang tên chiếc tàu chìm nơi đây vào đầu thế kỷ XX, nằm
tận cùng về hướng Đông, được bao phủ bởi bụi rậm, diện tích 2,11 km2
(2560 m x 823 m), chiều cao 4,5 m (15 ft), trên đảo có giếng nước ngọt, nhà và
tháp canh; vùng bãi cạn tiếp nối về hướng Nam có chiều dài khoảng 8 miles, có
vài xác tàu chìm trong khu vực này. Trên đảo có hai ngọn hải đăng vẫn còn hoạt
động . (www.unc.edu/~rowlett/lighthouse).
- Hòn
Đá Tháp hay hòn Kim Tự Tháp (112°39'
E - 16°35' N) (Pyramid Rock - Gaojianshi) nằm về hướng Tây Nam đảo Linh Côn
cách khoảng 7,5 miles, có hình tháp nhọn cao 5 m (17 ft) và thật nhỏ từ xa nhìn
như xác tàu chìm.
- Bãi Gò Nổi
hay bãi Gò Nô (112°53' E - 16°49' N) (Dido Bank - Xidu Tan) nằm
về hướng Đông Bắc đảo Linh Côn cách khoảng 13 miles.
- Bãi Thủy Tề
(vị trí trung bình 112°31' E - 16°30' N) (Neptuna Bank - Beibianlang Tan) nằm ở
hướng Tây Nam Đá-Tháp, dài khoảng 10 miles, ngang 1 mile.
- Bãi Quảng Nghĩa
(vị trí trung bình 112°41' E - 16°22' N) (Jehangire Bank - Zhanhan Tan) dài
khoảng 6 miles, ngang khoảng 4 miles nằm theo chiều dọc. Trong hải đồ năm 1984
ghi chú là bãi đá ngầm (Jehangire Reef).
- Bãi Châu Nhai
(vị trí trung bình 112°27' E - 16°20' N) (Bremen Bank - Binmei Tan), bãi cạn
này rộng nhất, dài khoảng 15 miles, ngang 4 miles nằm theo chiều ngang.
- Đá Bông Bay (112°31' E - 16°02' N)
(Bombay Reef - Langhua Jiao) nằm ngang về hướng Đông đảo Bạch Qui cách khoảng
45 miles, bãi cát hình bầu dục, dài khoảng 10 miles, rộng khoảng 3 miles.
Trên hải đồ năm 1984 đã được cập nhật hóa cho thấy có một lối cho tàu thuyền
vào bên trong ở về hướng Tây Nam, ngay trước lối vào có ngọn hải đăng do Pháp xây vẫn còn hoạt động, tầm xa
15 miles được xây trên một hòn đảo nhỏ tên là đảo Bông Bay rộng khoảng 190 mẫu
bao phủ bởi bụi rậm và những cây trơ trọi, có vài tòa nhà và một ngôi chùa xưa
đã bị sụp đổ [6].
Tàu thuyền được lưu ý cần phải thận trọng khi hải hành trong khu vực.
- Bãi Ốc Tai Voi (112°15' E - 15°44' N) (Herald Bank nằm cùng vĩ độ
với đảo Tri Tôn.
Căn cứ vào tài liệu do Hải quân
Hoa Kỳ phổ biến vào tháng 1-1974 thì nhóm Tuyên Đức còn có thêm:
- Cồn cát Bắc (112°20ꞌ E - 16°58ꞌ N) (North Sand - Bei
Shazhou).
- Cồn cát Trung (112°20ꞌ E - 16°57ꞌ N) (Middle Sand - Zhong
Shazhou) [11]
2 - Nhóm Nguyệt Thiềm còn được gọi là nhóm Lưỡi Liềm, nhóm Tây, Trăng Khuyết, Thượng Huyền (Crescent Group - Yongle Qundao)
Nhóm này xưa
kia là miệng ngọn núi lửa, trên mặt đảo thường là đá tảng, một số bãi cát vàng
và những bụi cây nhỏ [12]. Hình dạng nhóm này giống như lưỡi liềm, ngoài ra khi
nhìn trong bản đồ, nhóm này còn giống như lòng chảo với các đảo san hô, các bãi
đá ngầm, bãi cát bao quanh bên ngoài.
Trong nhóm lòng chảo này ba đảo
Hoàng Sa, Duy Mộng và Quang Hòa có diện tích tương đương. Hầu hết các đảo trong nhóm Nguyệt Thiềm đều có
giếng nước ngọt ngoại trừ đảo Vĩnh Lạc [7].
Có 2 lối cho tàu thuyền lớn ra vào trong lòng chảo này, đó là lối giữa đảo Cam
Tuyền và đảo Hoàng Sa rộng khoảng 0,5 mile. Lối thứ nhì rộng hơn, khoảng 5 miles
giữa bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope) và đảo Quang Hòa nhưng ở giữa có bãi cạn
ngầm.
Theo Hạm trưởng Lê Văn Thự là người đã có kinh nghiệm hải hành trong khu vực
này thì: "...các
đảo này có đặc
tính
chung là
gần bờ có đá ngầm,
san hô,
hết đá ngầm,
san hô thì biển rất
sâu,
đáy
biển cũng có đá nên neo tàu không an toàn."
[13]
Ngoài ra trong hải đồ cũng khuyến cáo là tàu thuyền nên cẩn thận khi hải hành
trong đêm giữa các hòn đảo nhỏ trong nhóm Nguyệt Thiềm.
Những hòn đảo, đá ngầm và bãi cạn trong khu lòng chảo theo thứ tự từ Tây sang
Đông và theo chiều kim đồng hồ gồm có:
- Đảo
Vĩnh Lạc (111°30' E - 16°27' N) (Money Island - Jinyin Dao) còn
có tên là Quang Ảnh để ghi nhớ Cai đội Phạm Quang Ảnh đã được vua Gia Long
phái ra Hoàng Sa đo đạc thủy trình vào năm 1815, hiện vẫn còn hậu duệ và nhà thờ
họ ở Cù Lao Ré. Ông ra Hoàng Sa rất nhiều chuyến, nhưng lần sau cùng ông và 24
người lính xuống thuyền ra khơi không bao giờ trở lại.
Đảo
do san hô tạo nên, có cây và có nhiều chim nhất trong nhóm; đảo cao khoảng 6 m,
diện tích độ 0,23 km2 (732 m x 320 m), quanh đảo là những bãi cát ngầm
cùng những bãi san hô kiên cố, địa thế không thuận tiện cho tàu bè, ngoài ra
còn có một ngôi chùa dựng lên từ thế kỷ thứ 17.
- Đá Hải Sâm (111°35'
E - 16°27' N) (Antelope Reef - Lingyang Jiao) nằm về hướng Đông đảo Vĩnh Lạc,
hướng Nam đảo Cam Tuyền; bãi đá đang cạn dần, có một cồn cát cao khoảng 2 m nằm
ở hướng Đông Nam được bao phủ bởi những
lùm bụi thấp.
- Đảo
Cam Tuyền (111°35' E - 16°30' N) (Robert Island - Ganquan Dao)
còn có tên là Hữu Nhật để ghi nhớ
Suất đội Thủy quân (có tài liệu viết là Cai
đội) Phạm Hữu Nhật đã được vua Minh Mạng phái ra Hoàng Sa đo đạc, xem xét
và vẽ bản đồ vào năm 1836. Chuyến đi của ông có mang theo mười tấm bài gỗ mỗi tấm dài 4,5 m, rộng 0,5 m, dày 0,1 m để
cắm cột mốc. Nhiệm vụ của ông là: “cặp
vào đảo nào, họ cắm cột mốc, dựng bia chủ
quyền ở đảo đó và đo đạc thủy trình, trồng thêm cây cối, thu lượm hải vật…”
Ông cũng là người ở Cù Lao Ré và đã bỏ
mình ngoài biển khơi trong chuyến công tác sau cùng.
Đảo có hình dáng giống như đĩa xôi hiện ra trên mặt biển, viền quanh đảo là một
bãi cát vàng, ở giữa cao trội hẵn lên, chiều cao khoảng 8 m, diện tích 0,22 km2
(805 m x 274 m) (theo Gerald E.Kosh, đảo
có kích thước 700 m x 500 m), vòng quanh đảo là bãi cát rộng từ 20 m đến 50
m, bãi đá ngầm từ hướng Tây Bắc có độ sâu khoảng 4 m kéo dài đến hướng Đông có
độ sâu khoảng 2 m.
Trên đảo có một miếu nhỏ, một tấm bia ngang 3 m, cao 0,4 m có ghi hàng chữ Đệ I
Trung đoàn Đổ bộ Thủy quân Lục chiến (TQLC); một tấm bia khác ghi Tiểu đoàn 3/TQLC
ngày 05 tháng 12 năm 1963, 2 bể nước bằng xi măng [14].
Trên đảo có nhiều bụi rậm nhỏ và
đá tảng, có một cầu sắt và một con đường đất xe đi được, giữa có một vũng lầy [12].
Theo tài liệu của Tòa Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ thì cây cầu sắt này dài khoàng
300 m (327 yards) do người Nhật xây để việc chuyển vận phosphate được dễ dàng [15].
Trước tháng 6/1956, ở cuối hướng
Đông Nam đảo có 5 túp lều [7].
Theo tài liệu của Hải quân Hoa Kỳ thì trong ngày 9 tháng 6 năm 1956, phi cơ
không thám Hoa Kỳ xác nhận sự có mặt của khoảng 75 dân TC trên đảo Cam Tuyền có
vẽ như đang khai thác phân chim. Ngày 10-6, họ được báo cáo từ phía Việt Nam là
lính TC đã đổ bộ lên đảo. Ngay sau đó khu trục hạm Hoa Kỳ được gởi đến tận nơi
và đã đưa một toán lính đổ bộ lên đảo mở cuộc tuần tiễu để điều tra nhưng kết
quả cho thấy là toán người TC đã rời đảo.
Tháng 2-1959, TC lại đưa ngư phủ có võ trang xâm nhập bất hợp pháp đảo
Cam Tuyền, Quang Hòa và Duy Mộng nhưng đã bị chiến hạm HQ/ VNCH phối hợp với
Thủy quân Lục chiến kịp thời ngăn chận và đã bắt giữ 80 ngư phủ TC.
Tài liệu của CIA ghi nhận: “TQLC trú đóng
trên
một
trong các đảo trong quần đảo
tranh chấp
Hoàng
Sa ở
Biển Đông,
ngày
22 tháng
2-1959 đã bắt
giữ 3
ghe máy cùng
70 người
Trung Hoa trong khu vực
một đảo khác trong quần đảo.” (CIA-central
intelligent bulletin- top secret ngày 25/2/1959)
- Đảo Hoàng Sa (111°36' E - 16°32' N) (Pattle
Island - Shanhu Dao), tên đảo Hoàng Sa được đặt từ đời nhà Nguyễn vì những bãi
cát vàng quanh đảo.
Đảo Hoàng Sa nằm về hướng Đông Bắc đảo Cam Tuyền và cách khoảng 3,5 km (khoảng 2
hải lý.
Đảo này quan trong nhất trong nhóm Nguyệt Thiềm vì các cơ sở dân sự và quân sự
của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã được thiết lập tại đây.
Đảo do san hô tạo nên, giống như hạt đậu, cao khoảng 9 m. Diện tích 0,295
km2 (805 m x 366 m).
Qua sự quan sát của Gerald E. Kosh thì: "…đảo
có
kích
thước 800 m x 400 m; trên đảo
có
7 cơ sở cố định, một
trong số này là đài khí tượng,
trên
mặt đảo có rất
nhiều lối đi
mòn,
có
những lùm bụi
hoang chỗ thưa
chỗ rậm, bãi cát rộng
từ 20 đến 30 m, bao
quanh đảo là bãi đá ngầm
chiều sâu từ
2 m đến 4 m (1 đến 2 fathom) và
chiều rộng cách bờ
từ 300 m đến 900 m"
[16]. Do vậycác tàu thuyền lớn phải neo cách bờ hơi xa rồi dùng thuyền nhỏ để
chuyển người và vật dụng lên đảo.
Năm 1938, người Pháp dựng lên bia chủ quyền gần giữa đảo và bắt đầu xây cất các
cơ sở dân sự như đài khí tượng, trạm chuyển nhận tín hiệu, hải đăng cùng với cơ
sở quân sự cho khoảng một tiểu đoàn trú đóng. [Hải đăng nằm về hướng Tây Nam, cao 17,6 m, tầm xa 14 miles (22,5 km)]
Theo Trần Thế Đức thì vào cuối năm 1973, bia chủ quyền chỉ còn là một đống
gạch và xi măng vụn nát cùng với một khối vuông vuông cũng đang “tàn phai nhan
sắc”; còn ngọn hải đăng nằm về hướng Bắc thì chỉ còn là đống sắt vụn [17]. (ngọn
hải đăng này người Pháp đã dự trù xây từ năm 1899 nhưng vì thủ tục hành chánh
nên bị trì hoãn [15])
Ngoài các cơ sở trên, người Pháp còn đào một cái giếng để lấy nước uống nhưng
theo Trần Kim Diệp thì sau này nước
giếng có vị lờ lợ nên không dùng nấu nướng được, nước ngọt để dùng thì phải
hứng từ nước mưa và được chứa trong
một hồ bằng xi măng [18].
Trong bản tin từ China News ngày 7 tháng 4 năm 2005 [19] và từ People Liberation
Army Daily ngày 6/4/2005 loan tin là các khoa học gia quân đội Trung Cộng đã tìm
được nước ngọt trên đảo Hoàng Sa có số lượng dụ trữ lên đến hàng triệu thước
khối [20] (với sự khám phá này, nhu cầu
nước ngọt trên đảo đã được giải quyết và các chiến hạm hoặc tàu thuyền hoạt
động trong vùng cũng có thể ghé ngang đấy để được tiếp tế nước ngọt).
Trước mặt trại lính là sân bóng chuyền và cột cờ, ngay tại cột cờ có bia xi măng
do Tiểu đoàn 1/TQLC dựng lên. Hai dãy
nhà do Pháp xây đã sụp hết một dãy, dãy còn lại dùng làm nơi làm việc và chỗ ở
cho 4 nhân viên đài Khí tượng Đà Nẵng và toán lính trấn đảo [18].
Ngay góc đảo về hướng Tây Nam là miếu Bà có Tượng Bà cao 1,5 m được xây sau khi
Nhật thất trận nhưng trước năm 1948.
Năm 1832, Vua Minh Mạng phái chiến thuyền ra đảo để cất lên ngôi chùa trên một
mỏm đá có tên là Ban Na, gần ngôi chùa, nhà Vua còn cho dựng lên một bia đá để
ghi nhớ ngày dựng chùa [15]. Trên đảo còn dấu tích của một ruộng muối nhỏ ở phía Tây đảo; ngoài ra đường rầy dài khoảng 180 m dùng để kéo những toa chứa phân phosphate đến bìa đảo vẫn còn, riêng
cây cầu để tàu nhỏ cập vào thì không còn sử dụng được nữa.
Đài khí tượng có số 48-860 (48 là số ám hiệu vùng Đông Nam Á, 860 là ám số đảo Hoàng Sa); một điểm đáng lưu ý là trong bản tường trình của Tổ chức Khí tượng Thế giới trực thuộc Liên hiêp quốc vào năm 2000 vẫn còn ghi chú Đài khí tượng 48-860 – Hoàng Sa - Pattle thuộc nước Việt Nam nhưng đã ngưng chuyển tin tức [10].
Cần ghi nhận thêm là ngày 3/10/1973
một chiến hạm của HQ/VNCH đã rời Đà Nẵng
chở theo một toán chuyên viên của Tiểu đoàn 8 Công binh Kiến tạo ra HS với
nhiệm vụ thám sát địa điểm thích hợp để
xây cầu tàu trên đảo Hoàng Sa và tái dựng lại bia chủ quyền trên đảo Cam Tuyền.
Chiến hạm trở lại Đà Nẵng ngày 5 tháng 10 sau khi hoàn tất công tác [21].
Tiếp theo đó, ngày 14/1/1974 một phái đoàn Công binh thuộc Vùng I Chiến thuật
do Thiếu tá Phạm Văn Hồng hướng dẫn đã được chỉ định tháp tùng Tuần dương hạm
Lý Thường Kiệt HQ 16 ra đảo Hoàng Sa để nghiên cứu việc thiết lập một phi
trường trên đảo (năm 1967, một toán
chuyên viên Công Binh đã thất bại trong việc nghiên cứu thiết lập một phi
trường tại đây) [11] [22].
-
Đảo Ốc Hoa (111º40’ E - 16º35’ N) (tên
Trung Hoa là Quanfu) nằm về hướng Đông Bắc đảo Hoàng Sa và hướng Tây Nam bãi Xa
Cừ, đảo dài 500 m rộng 100 m.
(trích từ https://cil.nus.edu.sg/wp.../06/Crescent-Group-Quanfu-and-Yagong-Islands-Final.pdf)
- Đảo Ba Ba (111º41’ E - 16º34’N)
(tên Trung Hoa là Yagong) nằm về hướng Đông Nam đảo Ốc Hoa. Đảo dài 200 m,
rộng100 m.
(trích từ https://cil.nus.edu.sg/wp.../06/Crescent-Group-Quanfu-and-Yagong-Islands-Final.pdf)
- Bãi Xa Cừ (111°42' E -
16°35' N) (Observation Bank -Yin Yu) còn được gọi là cồn Quan Sát. Từ đảo Hoàng Sa theo hướng Đông Bắc đến bãi Xa
Cừ là một chuỗi bãi đá ngầm, bãi cạn và dài khoảng 6 miles. Bãi Xa Cừ là bãi cát ngầm, quanh bìa là san hô, dài
khoảng 2,5 miles, ngang khoảng 1 mile, có đảo cát nhỏ nằ bên trong. Tiếp theo
bãi Xa Cừ là một dãy đá ngầm có dạng (>) kéo dài theo hướng Đông Nam khoảng 4 miles và đổi ngược lại theo hướng
Tây Nam cũng vào khoảng 4 miles. Khoảng giữa bãi Xa Cừ và đảo Duy Mộng có vài
cồn cát [7].
-
Đảo Duy Mộng (111°44' E - 16°28' N) (Drummond Island - Jinqing Dao) nằm ở
tận cùng bãi đá ngầm tiếp giáp với
bãi Xa Cừ, là đảo đặc biệt nhất trong nhóm vì có một con lạch nhỏ nên thuyền
lớn có thể nương theo vào tới sát bờ
tuy rằng vòng đai san hô bao quanh đảo rộng lớn hơn mấy đảo kế bên.
Đảo cao khoảng 4 m, diện tích
khoảng 0,3 km2 (823 m x 366 m), không có loại cây lớn, chỉ toàn cây nhỏ,
có nhiều chim biển và con vít sống trên đảo.
- Đảo
Quang Hòa (111°42' E - 16°27' N) (Duncan Island - Chenhang Dao)
là đảo quan trọng thứ nhì trong nhóm
Nguyệt Thiềm sau đảo Hoàng Sa, cách đảo Duy Mộng khoảng 3km về hướng Tây Nam,
gồm một đảo lớn tên Quang Hòa Đông và một đảo nhỏ tên Quang Hòa Tây chỉ bằng
1/10 đảo Quang Hòa Đông, nối liền hai đảo là một dãy cát dài.
Đảo cao khoảng 5 m, diện tích bằng đảo Duy Mộng khoảng 0,3 km2 (823 m x
366 m), có nhiều đá tảng và bãi cát.
Ngoài khu vực lòng chảo còn có các đảo, bãi đá, bãi cạn sau đây:
- Đá Bắc (111°30' E - 17°06' N (North Reef - Bei Jiao) nằm chơ vơ ở hướng cực Bắc của quần đảo Hoàng
Sa. Vài mỏm đá rất nhỏ trong khu vực này nằm cách đảo Hải Nam khoảng 122 miles. Bãi đá này dài khoảng 7 miles, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 2,5 miles, có một
đảo cát nhỏ rất thấp, trên đảo có ngọn hải đăng tầm xa 15 miles [23].
Vào thời điểm nhất định từ khoảng cách đáng kể có thể nghe tiếng sóng đập vào những
mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước. Có lối vào
trong bãi đá nằm ở hướng Tây Nam. Khu vực này rất nguy hiểm cho tàu thuyền, tuy nhiên trên màn ảnh radar có thể
phát hiện chúng vì các xác tàu chìm (3
chiến hạm của Pháp và vài chiếc tàu khác đã chìm ở đây).
- Đá Lồi (vị trí
trung bình 111°40' E - 16°14' N) (Discovery Reef - Huaguang Jiao) nằm về hướng Nam lòng chảo cách đảo Quang Hòa 11 miles;
bãi đá ngầm này lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa, có chiều dài khoảng 15 miles và chiều ngang khoảng 8 miles,
có vài mỏm đá cao khỏi mặt nước độ vài feet, có 2 lối vào vũng nước bên trong,
một lối ở giữa hướng Bắc và một lối ở giữa hướng Nam.
- Đảo
Bạch Qui hay đá Bạch Qui (111°46' E - 16°03' N) (Passu Keah
Island - PanshiYu) cách
đá Lồi 10 miles về hướng Nam, diện tích
0,2 km2 (1200 m x 200 m) bãi đá bao quanh đảo dài khoảng 5 miles, ngang 2 miles.
- Đá Chim Yến (vị
trí trung bình 112°01' E - 16°20' N) (Vuladdore Reef - Yuzhuo Jiao) nằm ở hướng
Đông Nam lòng chảo (cách khoảng 14 miles) và hướng Đông Bắc đá Lồi (cách khoảng
10 miles), chiều dài khoảng 8 miles, ngang khoảng 2 miles, có một ít mỏm đá cao
hơn mặt nước.
- Đảo
Tri Tôn (111°12' E - 15°47' N) (Triton Island - Zhongjian Dao) là
đảo lớn nhứt trong nhóm Nguyệt Thiềm, nằm gần bờ biển Việt Nam nhất, cách Cù
Lao Ré khoảng 130 miles diện tích 1,7 km2 (1700 m x1200 m) cao khoảng 3 m
nên rất khó nhận dạng. Báo cáo từ các nhà hàng hải cho biết là tàu thuyền không phát giác được đối
tượng của đảo trên màn ảnh radar khi đến gần khoảng 1 mile. Tháng 10/1973, chiến
hạm Hải quân Hoa Kỳ USNS Pendleton đã lên cạn và bỏ xác trong khu vực này [24].
II.-
KHÍ HẬU
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong vùng nhiệt đới, vì thế
thời tiết rất là khắc nghiệt, thay đổi bất thường, gió mạnh thổi quanh năm, mưa bão xảy ra thường xuyên (mỗi năm trung bình có tới khoảng 10 cơn bão trong vùng Biển Đông) và độ ẩm rất
cao.
Quần đảo Hoàng Sa chịu ảnh hưởng
của gió mùa Tây Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 8 và gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng
3.
Dòng nước lạnh từ vùng biển phía Bắc không dẫn nhập xuống đến khu vực này nên nhiệt
độ nước biển tương đối cao và thay đổi rất ít, do đó ít bị ảnh hưởng của sương
mù.
Từ ngày Trung Cộng cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa, đài khí tượng của VNCH ngưng hoạt
động. Theo www.weatherbase.com thì nhiệt độ trung bình trên đảo Hoàng Sa là
26° C.
Tháng năm là tháng nóng nhất, nhiệt độ trung bình 28,9° C.
Tháng giêng là tháng mát nhất với nhiệt độ trung bình là 22,8° C.
Mưa trung bình trong năm là 1242,1 mm.
Tháng 10 mưa nhiều nhất 248,9 mm,
tháng hai mưa ít nhất 15,2 mm.
Trên đảo Phú Lâm, đài khí tượng
của Trung Cộng vẫn còn hoạt động và qua những dữ kiện tiếp nhận liên tục trong
vòng 18 năm đã cho thấy là nhiệt độ trung bình trên đảo Phú Lâm là 27° C.
Tháng năm, nhiệt độ cao nhất là 33,9° C. Tháng giêng, nhiệt độ thấp nhất là 23,9°
C [25].
- Mỗi
năm trung bình có 167 ngày mưa (mùa mưa bắt đầu từ tháng 6 hoặc tháng 7 và chấm
dứt vào tháng 2).
- Mỗi năm
trung bình có 23 ngày có bão.
- Mỗi năm
trung bình có 6 ngày gió thổi cuốn theo bụi và cát.
- Mỗi năm
trung bình có 6 ngày tầm nhìn bị hạn chế.
- Tốc độ gió
thổi trung bình là 19 km/giờ.
- Có độ ẩm
xảy ra thường xuyên trong buổi sáng và buổi chiều.
III.- SINH, THỰC VẬT
1 .-
SINH VẬT
- Trên đảo: vì khí hậu quá khắc nghiệt nên không có sinh vật
sống trên đảo ngoại trừ loài chim mòng biển và loại vịt biển. Về mùa đông, loài chim này kéo về đây để nghỉ ngơi,
sinh sản và trú ẩn. Những loại rùa,
vít, đồi mồi cũng lên đảo để sinh sản từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch và loại
chim yến cũng thường làm tổ trên một số đảo, do đó dân chúng từ các vùng đất
liền vẫn thường hay tới các đảo lấy trứng chim biển, tổ yến, bắt đồi mồi, rùa
và vít.
- Dưới biển:
vùng biển Hoàng Sa có đủ loại hải sản như sò, ốc, cua, mực, tôm, đủ loại cá như
cá mú, cá bò, cá hồng, cá thu ... Có hai loại cá kỳ dị như “cá Khăn Bàn” lớn
bằng khăn trải bàn và có tôm hùm thật to, còn ốc thì có loại ốc Tai Tượng phơi
khô nướng ăn khá ngon miệng. Ngoài ra còn có loại rong biển có thể chế biến
thành thực phẩm, các loại rùa, đồi mồi, vít có một số được xếp vào loại hiếm muộn.
2 .- THỰC
VẬT
Trên các đảo nhỏ trong vùng hầu như không có đất hoặc có rất ít
và với mùa khô kéo dài, gió mạnh thổi quanh năm nên cây cỏ không sống nổi. Trên
các đảo lớn như đảo Hoàng Sa có sự hiện diện của loại thực vật sống ở miền
nhiệt đới. Cây cỏ trên Hoàng Sa gồm có các loại cây sống quanh năm, các loại
bụi rậm và cỏ mọc ven biển; có khoảng 340 loại cây cỏ khác nhau được xếp vào 89
họ và 244 giống. Trong số này có 22 loại nấm, 1 loại rêu, 5 loại cây dương xỉ
và 312 loại cây nở hoa.
Có rất ít tài liệu viết về các loại cây cỏ trong vùng Biển Đông nên rất khó xác
định được loại giống nào được loài người mang đến trồng trên đảo. Từ khi người
Việt Nam và người Trung Hoa bắt đầu trú ngụ, họ đã mang theo từ đất liền khoảng
47 loại, trong số này có dừa, bắp, đậu phộng, khoai lang và đủ loại rau cải.
Theo tài liệu của Bộ Ngoại giao VNCH trên đảo Hoàng Sa và Phú Lâm có trồng cây
dừa; theo tài liệu của Trung Cộng vào năm 2000 trên đảo Phú Lâm đã trồng được 90.000
cây dừa, một số cây tùng và cây loquat (thanh trà Nhật Bản).
Theo Trần Thế Đức trên đảo Hoàng Sa còn có các cây cao bằng đầu người, lá lớn bằng
bàn tay màu xanh lá chuối non, thân cây cứng và có vài cây dương liễu, cây dừa,
nhiều cây thông.
Theo Trần Kim Diệp trên đảo Hoàng Sa có một số lùm bụi thấp và rau sam. Theo
Nguyễn Nhã trên đảo Quang Hòa Đông có rừng cây nhàu và cây phosphorite nhiều cây
cao đến 5 m.
IV.-
SƠ LƯỢC VỀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA
Với những hòn đảo san hô trơ trọi
không người sinh sống, đất đai không thích hợp cho việc trồng trọt, nước nôi
thiếu thốn, điều kiện thời tiết thật là khắc nghiệt. Cho đến Thế chiến thứ II
những hòn đảo trong vùng Biển Đông chỉ có giá trị căn cứ vào số lượng phân
chim.
Nhận định này đã trở nên lỗi thời
kể từ khi Nhật Bản nhận thức được tầm quan trọng về mặt chiến lược và quân sự
nên đã chiếm đóng một số đảo trong vùng Biển Đông, tuy nhiên vì thua trận trong
Đệ II Thế chiến nên họ đã rút quân ra khỏi những đảo này.
Cùng quan điểm với Nhật Bản, sau
khi chiếm cứ đảo Phú Lâm vào đầu năm 1956, TC ngay sau đó vào tháng 6/1956 và một
lần khác trong tháng 2/1959 đã mon men đưa người lên các đảo Cam Tuyền, Quang
Hòa và Duy Mộng với âm mưu chiếm trọn quần đảo HS, nhưng đã bị bại lộ.
Trong cuối thập niên 60 và đầu
thập niên 70, với sự khám phá các túi chứa dầu hỏa trong khu vực thềm lục địa
tiếp cận với các quốc gia bao quanh Biển Đông, với tiềm năng về hải sản và phốt
phát đã có từ trước, cộng thêm vào sự giao thông tấp nập của các thương thuyền
và tàu chở dầu do sự phát triển kinh tế vược bực của Trung Cộng, Nhật Bản, Đại
Hàn, Đài Loan… đã làm nâng cao giá trị và tầm mức quan trọng của Hoàng Sa về
các khía cạnh chánh trị, chiến lược, kinh tế và bảo vệ môi trường.
1.- CHÁNH TRỊ
Các sự tranh chấp chủ quyền trên các quần đảo trong vùng Biển Đông vẫn còn
tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Để xác nhận chủ quyền và để phô trương lực
lượng, các quốc gia tuyên bố xác nhận chủ quyền bắt buộc phải tiếp tục duy trì
sự hiện diện thường xuyên của lực lượng Hải, Lục và Không quân trong vùng.
Điều này có thể dẫn đến các cuộc
xung đột vũ trang và từ đấy có thể đưa đến sự xáo trộn và khủng hoảng nội bộ
trong các nước bao quanh vùng Biển Đông do sự phong tỏa các đường hải vận.
Khủng hoảng về kinh tế và quân sự
có thể mang lại sự thay đổi cấp lãnh đạo và từ đó có thể làm đảo ngược thế liên
minh trong vùng.
2.- CHIẾN LƯỢC
Tầm quan trọng về chiến lược bao gồm hai lãnh vực quân sự và giao thông hàng
hải.
a.- Quân sự. Duy trì, xây
dựng và bành trướng các cơ sở quân sự trên các hải đảo trong vùng là điều kiện
thiết yếu để củng cố chủ quyền và phát triển các nguồn lợi quanh vùng. Từ thập
niên 1930 người Pháp đã cho xây dựng một số cơ sở quân sự, duy trì liên tục lực
lượng trú phòng và biệt phái chiến hạm thường xuyên tuần tiễu trong vùng.
Thời kỳ Đệ nhị Thế chiến, người
Nhật cũng đã có cái nhìn tương tự khi họ mang quân chiếm đóng Hoàng Sa. Sau khi
thất trận họ đã rút lui trong năm 1946.
Tháng 12/1946, quân đội Trung Hoa
Quốc gia của Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã phái chiến hạm chở quân đổ bộ lên
chiếm đóng một số đảo trong nhóm Tuyên Đức.
Tháng
10-1949 thống nhất lục địa, mùa hè 1951 TC đưa một ít người lên 3 đảo ở Hoàng
Sa, thiết lập tạm thời trạm truyền tin, thời tiết và bắt đầu xây cất các doanh
trại.
Đầu năm 1956, TC chánh thức đưa lính và dân lên đảo Phú Lâm và bắt đầu thiết
lập trạm quan sát, truyền tin, xây cất cầu tàu và cơ sở quân sự [27].
Năm 1956, quân đội VNCH đã thay
thế quân trú phòng Pháp khi họ rút khỏi đảo Hoàng Sa và hiện diện liên tục cho
đến ngày 20 tháng 1/1974. Các chiến hạm thuộc HQ/VNCH đã có những chuyến công
tác định kỳ để thay thế toán lính và nhân viên đài khí tượng trên đảo này.
Quần đảo Hoàng Sa được TC xem như
là khu vực quan trọng về mặt chiến lược để duy trì việc kiểm soát thực sự quần
đảo Trường Sa. Vì vậy từ năm 1974, sau khi cưỡng chiếm Hoàng Sa, Trung Cộng đã
bành trướng và xây cất thêm các cơ cở
quân sự cho Hải, Lục và Không quân sử dụng.
-Hải
quân:
hiện Trung Cộng đang có tất cả 5 căn cứ Hải quân trên các đảo Phú Lâm, Hoàng
Sa, Vĩnh Lạc, Quang Hòa và Tri Tôn.
Trên đảo Phú Lâm, TC đã phá san
hô để mở rộng hải cảng với cầu tàu cho các chiến hạm có trọng tải khoảng 4000 tấn sử dụng (năm 1979 cảng này chỉ có khả năng tiếp nhận
chiến hạm dưới 500 tấn) [28].
-Lục quân: trên hầu hết các đảo trong
nhóm Nguyệt Thiềm, TC đã xây lên các doanh trại đáp ứng cho nhu cầu cả một
Trung đoàn Bộ binh, đào các đường hầm để dự trữ nhiên liệu, thiết lập các công
sở phòng thủ và các đài truyền tin. Trên đảo Tri Tôn là đảo gần bờ biển Việt
Nam nhất cũng được trang bị đại bác và dụng cụ truyền tin.
Ngoài ra tình báo Hoa Kỳ tháng 6/2001
cho hay là trên đảo Phú Lâm TC đã thiết trí phi đạn chống chiến hạm loại HY-2 có khả năng đánh chìm chiến hạm trọng
tải lên đến 3.000 tấn
-Không quân: để bành
trướng lực lượng Không quân vào Biển Đông, trong năm 1988 TC đã biến đảo Phú
Lâm thành căn cứ không quân tiền phương với phi trường có phi đạo tráng nhựa
dài 2.600m (tài liệu CIA viết là từ 1.524
m đến 2.437m). Phi trường này được sử dụng bởi hầu hết các loại phi cơ như
chiến đấu cơ SU-27, F-8 ,oanh tạc cơ hạng trung (medium bomber) H-6.
Tháng 7/1990, TC thiết lập một
căn cứ không quân mới trên đảo Phú Lâm với phi đạo chánh, có chổ chứa từ 30 đến
40 phản lực cơ, 4 kho hàng, kho tồn trữ nhiên liệu và kho chứa hỏa tiễn không địa.
Lực lượng không quân được sử dụng ở căn cứ này là loại chiến đấu cơ F-6 và F-7.
Các phi cơ này thực hiện các phi vụ từ Hải Nam đến đảo Phú Lâm và ngược
lại.
Với phi trường này, không quân TC
có khả năng hoạt động bao trùm cả Việt Nam, Đài Loan và Phi Luật Tân. (tài liệu tổng hợp do Bộ LQ/HK cung cấp ngày
23/11/2009)
Theo nhà phân tích quân sự Hoa Kỳ
Richard Fisher thì đảo Phú Lâm có thể được xem như là một hàng không mẫu hạm bí
mật của TC trong Biển Đông.
Ngoài ra trên đảo Phú Lâm còn có
trung tâm kiểm soát không lưu, tầm hoạt động bao gồm luôn quần đảo Trường Sa.
-Tình báo: đảo Đá với vị trí cao nhất trong quần
đảo HS được chọn để dựng lên đài dò tìm tín hiệu SIGINT (Signals Intelligent)
trao đổi giữa phi cơ và chiến hạm. Đài này đã bắt đầu hoạt động từ năm 1995,
tầm hoạt động bao gồm cả Phi Luật Tân, quần đảo Trường Sa và eo biển Malacca [29].
Ngoài ra để mở rộng hệ thống tình
báo, TC còn sử dụng 6 chiến hạm có trang bị SIGINT.
Mặt khác một số tàu dầu, tàu tiếp
tế cho tàu ngầu, tàu phá băng cũng được trang bị dụng cụ ELINT (Electronic
Intelligent) để theo dõi sự di chuyển của các chiến hạm hoạt động trong vùng Biển
Đông.
Sau cùng trong bản tin của đài
BBC ngày 2 tháng 3/1998 thì TC đang xây đài tiếp vận tín hiệu từ vệ tinh trong
quần đảo HS.
Tóm lại với các căn cứ Hải/Không quân
và lực lượng Bộ binh trú đóng trên hầu hết các đảo, với hệ thống thu thập tin
tức tình báo trải rộng ra khắp Biển Đông, với sự tối tân hóa Hạm đội gồm các
chiến hạm đủ loại trong đó có tàu ngầm nguyên tử và với nổ lực đóng chiếc hàng
không mẫu hạm (HKMH) đầu tiên dự trù hoạt động vào năm 2010 (trên thực tế HKMH Liaoning đã bắt đầu hoạt
động từ tháng 9/2012), TC đã có khả năng phòng thủ, bành trướng, can thiệp
nhanh chóng khi có biến cố xảy ra và điểm quan trọng nhất là TC có đủ khả năng
mở ra các cuộc hành quân để chiếm trọn tất cả các hải đảo trong Biển Đông .
Để chế ngự TC, ngoài thế liên
minh quân sự đã có sẵn với các nước Nhật, Đại Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân và Úc Đại Lợi, Hoa Kỳ đã và đang cố gắng
cải thiện hợp tác quân sự với Ấn Độ, Nam Dương và Việt Nam. Trong khoảng thời
gian gần đây, Hoa Kỳ đã gia tăng ngân khoản để cải tiến căn cứ quân sự trên đảo
Guam như là một sự thay thế cho căn cứ Subic Bay mà Hoa Kỳ đã rút khỏi vào năm
1992.
b.-
Giao thông hàng hải
Biển Đông bao phủ một khu vực rộng đến 3,5 triệu km2, nằm giữa Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương và là gạch nối quan trọng giữa các lục địa Á Châu, Âu Châu, Phi
Châu và Úc Châu.
Chiếm đoạt Hoàng Sa và Trường Sa
sẽ kiểm soát hải trình vùng phía Bắc Biển Đông và hải trình nối liền Thái Bình
Dương và Đông Nam Á với Ấn Độ Dương.
Sự phát triển kinh tế vượt bực
của các nước trong vùng Biển Đông đã làm gia tăng số lượng hàng hóa, nguyên
liệu và nhiên liệu xuất, nhập cảng do đó việc sử dụng thương thuyền để làm
phương tiện chuyên chở cũng tăng theo.
Từ năm 2010, TC đã trở quốc gia xuất cảng hàng đầu trên thế giới, năm 2012 đã
qua mặt Nhật Bản trở thành cường quốc đứng hạng nhì về kinh tế, chỉ sau Hoa Kỳ.
Điều này đã biến hải trình ngang
qua Biển Đông trở thành một trong những hải trình bận rộn nhất trên thế giới
(đứng hàng thứ 2). Mỗi năm có hơn ½ hạm đội thương thuyền trên thế giới đi
ngang qua eo Malacca vào Biển Đông (khoảng 50,000 thương thuyền).
Hàng năm, tổng số lượng hàng hoá
di chuyển ngang Biển Đông có giá trị lên đến 5 ngàn 300 tỷ đô la, trong đó
1.200 tỷ đô la hàng hoá trao đổi với HK và 4.100 tỷ đô la với các nước khác.
Ngoài ra do nhu cầu gia tăng tiêu thụ nhiên liệu khoảng 80% số lượng dầu thô
nhập cảng vào TC, Nhật, Đài Loan và Nam Hàn cũng đi ngang qua khu vực này.
Những dẫn chứng kể trên cho thấy
sự phát triển kinh tế của TC, các quốc gia trong vùng Biển Đông và vùng Đông
Bắc Á Châu lệ thuộc rất nhiều vào sự an toàn và tự do thông thương của thủy
trình huyết mạch này.
Đây cũng là lý do chánh yếu để Trung Cộng thôn tính và dành lấy chủ quyền các hải đảo và đây cũng là lý do mà Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ khi Trung Cộng có hành động ngăn trở hoặc phong tỏa thủy trình này, vì sẽ liên hệ trực tiếp đến quyền lợi của Hoa Kỳ.
3.- KINH
TẾ
a.- Dầu hỏa và khí đốt.
Tầm quan trọng về triển vọng dầu hỏa và khí đốt trong khu vực quần đảo
HS nói riêng và Biển Đông nói chung thực sự chỉ được chú ý đến kể từ khi các
quốc gia bao quanh và lân cận vùng biển quần đảo Trường Sa như Brunei, Nam
Dương, Mã Lai, Thái Lan, Phi Luật Tân và Việt Nam khám phá các mỏ dầu trong
thềm lục địa của họ vào đầu thập niên 70.
Những cuộc thăm dò tiếp theo với
kết quả thật khả quan về triển vọng dầu hỏa và khí đốt trong Biển Đông nhất là
trong khu vực quần đảo Trường Sa tiếp cận với thềm lục địa của các quốc gia nêu
trên càng làm gia tăng sự chú ý về tiềm năng dầu hỏa trong vùng này.
Cho đến nay tiềm năng dầu hỏa và
khí đốt thực sự chỉ trên lý thuyết căn cứ vào các cuộc thăm dò. Kết quả đã cho
thấy sự khác biệt về con số ước lượng tùy thuộc vào cơ quan và quốc gia tổ chức
cuộc thăm dò.
Dựa trên kinh nghiệm, những mỏ
hydrocarbon được khám phá có thể chứa dầu và khí đốt lẫn lộn, hoặc chỉ chứa dầu
hay chỉ chứa khí đốt mà thôi
Theo sự ước lượng của Sở Khảo sát
Địa chất Hoa Kỳ thì khoảng 60% đến 70% các túi dự trữ trong các nước quanh vùng
Biển Đông như Brunei, Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan, Phi Luật Tân và Việt Nam
chứa khí đốt. Cơ quan Thông tin Năng lượng HK (EIA) trong báo cáo tháng 2 năm
2013, ước tính có đến khoảng 11 tỷ thùng dầu dự trữ và 190 nghìn tỷ cubic feet
trữ lượng khí đốt trong toàn Biển Đông (con
số này được dựa trên số lượng dự trữ đã được chứng minh và có thể) [30].
Mức độ phát triển kinh tế và gia
tăng dân số được xem là cao nhất trên thế giới của các quốc gia Á Châu đã làm
gia tăng vượt bực nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu và khí đốt.
TC đang từ nước xuất cảng dầu
(chế biến từ than đá) trước thập niên 80 nhưng từ năm 2003, TC đã qua mặt Nhật
Bản để trở thành nước nhập cảng dầu hỏa thứ nhì trên thế giới.
Việc
đi tìm những
nguồn cung cấp nhiên liệu
là
điều kiện
thiết yếu của
TC.
Tháng 9/1993, Phó Đô đốc Zhang Xusan thuộc Hải quân TC tuyên bố: “đã đến
lúc
Trung Hoa cần thay đổi
chiến lược biển
và
cố gắng nhiều
hơn để tìm nguồn
lợi dầu hỏa
và
khí
đốt trong Biển Đông.”
Đây là một trong những yếu tố
chánh yếu đã đưa TC đến quyết định dùng vũ lực cưỡng chiếm HS.
Vì thế
sau khi chiếm
đoạt HS, vào
tháng 6/1974, TC đã bắt
đầu
khoan thăm dò
trong khu vực
này, nhưng
cho đến
nay vẫn
chưa
thấy
công bố
kết
quả [31].
Và một khi Trung Cộng chiếm trọn Biển Đông, nhu cầu nhiên liệu nội địa sẽ được thỏa mãn, giấc mộng bá chủ thế giới sẽ thành sự thật.
Đây là lý do mà Hoa Kỳ phải tức thời ra tay ngăn
chận.
b.- Hải sản. Vùng Biển Đông rất phong phú về hải
sản và nguồn lợi này đã nuôi sống người dân trong vùng từ thế hệ này qua thế hệ
khác. Ngư dân nước ta vẫn thường xuyên ra tận vùng này để hành nghề từ bao năm
trước và vì Hải quân VNCH không đủ khả năng để kiểm soát vùng biển quá rộng lớn
nên ngư dân TC cứ tiếp tục vi phạm lãnh hải nước ta để khai thác hải sản.
Đầu năm 1959 Hải quân VNCH đã bắt
giữ 80 ngư phủ TC trong khu vực lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm.
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế
kèm theo sự gia tăng dân số của TC (theo
ước lượng tháng 7/2014, dân số hiện nay là 1,356 tỷ, mức độ tăng trưởng là 0.44% mỗi năm [32]) đã làm giảm đi diện tích canh tác và đã đưa đến việc sản xuất
nông nghiệp bị sút giảm. Điều này đã làm cho các nhà lãnh đạo TC chú tâm đến
những nguồn dinh dưỡng khác trong đó có hải sản. Năm 1984, viên chức cao cấp
trong chánh quyền TC đã khẳng định là việc cung cấp thực phẩm hàng ngày cho số
lượng dân quá lớn lao sẽ phải cần đến sự cung cấp chất protein lấy từ hải sản.
Báo chí TC năm 1989 đã đưa ra lập luận là 80% tài nguyên trên quả địa cầu nằm
trong lòng đáy biển và hải sản sẽ trở thành nguồn dinh dưỡng chính yếu có chứa
chất protein.
Tổng số lượng hải sản sản xuất
trong Biển Đông chiếm 10% toàn thế giới, được ước lượng có thể khai thác đến 30
triệu tấn mỗi năm, nhưng hiện nay chỉ có khoảng 13% là được khai thác.
Ngoài ra việc khai thác hải sản
còn mang lại lợi tức cho gần 80 triệu người sinh sống dọc theo vùng duyên hải
tiếp cận Biển Đông.
Nguồn lợi thiên nhiên này đã có tự ngàn đời trước và sẽ còn mãi trong tương
lai.
c.- Phốt phát. Vốn là các đảo hoang từ ngàn năm
trước nên chim chóc (chính yếu là chim Hải âu) đã tụ tập về đây trú ngụ và sinh
đẻ, nhiều nhất là trên đảo Vĩnh Lạc và bãi Xa Cừ (cồn Quan Sát-Observation Bank)
Một đoạn trong bài “quần đảo Hoàng Sa và chủ quyền VNCH” có viết: “…Trứng chim đầy dẫy trên đảo, phải tìm chỗ
đặt chân trước khi bước đi. Trứng chim nhỏ hơn trứng gà một chút, có thể lượm được
từ 3.000 đến 5.000 trứng mỗi lần, ăn ngon như trứng gà. Chim bị đuổi bay lên
như một đám mây nâu che rợp một góc trời, lấy đá chọi cũng rớt.” [22]
Phốt phát do phân chim tác dụng trên chất vôi
của san hô trải qua bao năm tháng dưới những cơn mưa, bão miền nhiệt đới tạo
nên. Những lớp phốt phát chiếm khoảng từ 23% đến 25% trên một số đảo, khoảng
42% trên các đảo khác và chiều dày thường trên 1 m. [33]
Năm 1915, người Nhật đã khám phá sự hiện diện của phốt phát
trong quần đảo HS. Sau thế chiến thứ nhất, người Nhật xin phép chánh quyền Pháp
ở Đông Dương để được khai thác phốt phát.
Trong khoảng 1924-1926 các công ty Nhật đã dùng mìn để khai thác phân phốt phát
và việc làm này đã làm hư hại rất nhiều cây cỏ trên đảo Cam Tuyền .[33]
Tài liệu của Phòng Tình Báo
Hải Quân HK năm 1955 viết là phẩm chất phân chim trên đảo Phú Lâm kém hơn các
đảo khác, nhưng vẫn được người Nhật xem là xứng đáng để bỏ công khai thác.
Trong năm 1922, chiều dày trung bình của phân chim trên đảo Phú Lâm khoảng 1,3
ft (0,381 m). Đến năm 1933, sau một thời
gian bị người Nhật khai thác, chỉ còn lại khoảng 10 inches (0,254 m)
Ước lượng trong năm 1922 cho thấy 34% quần
đảo Hoàng Sa chứa phân chim có độ dày trung bình lên đến 1,5 ft (0,432 m).
Năm 1938, người Nhật còn khai thác trên đảo Phú Lâm và chuẩn bị bắt đầu khai thác
trên đảo Linh Côn. Số lượng phân chim trên đảo Cam Tuyền hầu hết đã bị người Nhật
khai thác, nhưng trên các đảo chưa được đặt chân đến vẫn còn một số lượng dự trữ
đáng kể. [Phòng Tình báo Hải quân HK
‘Disputed Island in the South China Sea’ năm 1955]
Phần người Pháp, thì họ đã khám phá phốt phát vào năm 1925 khi chiếc tàu De
Lanessan thuộc Hải Học viện Đông dương ra HS thực hiện cuộc khảo sát đầu tiên.
Theo E. Saorain trong cuốn “Archives Geologique du Vietnam” thì số lượng phốt
phát có thể khai thác được trên quần đảo HS lên tới 10 triệu tấn.
Căn cứ theo tài liệu của Tổng Nha
Khoáng chất và Công Kỹ nghệ, số lượng phosphate trên các đảo trong nhóm Nguyệt
Thiềm thuộc quyền kiểm soát của VNCH như sau:
- Đảo Hoàng Sa: từ 562.000 đến
960.000 tấn, trên đảo có hệ thống đường rầy và cây cầu nhỏ để mang phốt phát
xuống tàu.
- Đảo Cam Tuyền: từ 675.000 đến
1.400.000 tấn. Để cho việc chuyển vận phốt phát được dễ dàng, nguời Nhật đã
dựng lên những khối phốt phát để cản sóng và cây cầu sắt dài khoảng 300 m.
Những cơ sở này đã bị bỏ phế vì việc khai thác không mang lại lợi nhuận.
- Đảo Vĩnh Lạc: từ 787.000 tấn đến
1.200.000 tấn.
- Đảo Duy Mộng: từ 675.000 tấn trở lên.
[34]
Năm 1959, công ty phân bón Việt
Nam cũng tới khai thác được khoảng 20 ngàn tấn phosphate nhưng tới năm 1960
công việc bị bỏ dở [12], theo Trần Thế Đức thì có 2 công ty Việt Nam khai thác
phân vào năm 1960 nhưng đến năm 1962 ngưng hoạt động.
d.-
Du lịch. Với những vẽ đẹp thiên nhiên của
các đảo san hô miền nhiệt đới, các bãi đá ngầm sóng vỗ bên ngoài bên trong là
cả hồ nước lặng im, các đảo cát dài bao quanh bởi san hô, rong biển, đủ loài
hải sản, nước biển trong suốt nhìn rõ tận đáy, rất nhiều loại chim hiếm qúy….. đã là những yếu tố để
quyến rũ khách du lịch.
Trong tờ China Daily ngày 10 tháng
8-2002 có đăng tin về kế hoạch khai thác du lịch HS của chánh quyền địa phương
tỉnh Hải Nam (hiện nay đã có các tour du
lịch đến đảo Phú Lâm).
4.- Bảo vệ môi trường. Biển Đông nằm giữa ranh giới của
các quốc gia đang có mức độ tăng trưởng kỹ nghệ hóa rất cao và cũng là đường
hàng hải bận rộn thứ nhì trên thế giới. Những yếu tố này đã làm phương hại đến
môi trường nuôi dưỡng sinh thực vật trên các hải đảo và dưới mặt biển.
Quan tâm đến việc tranh chấp chủ
quyền, gia tăng tối đa việc phát triển kinh tế, bảo đảm việc cung cấp nhiên
liệu được đầy đủ là những yếu tố đã được đặt ưu tiên trên công tác bảo vệ môi
trường của các quốc gia liên hệ đến Biển Đông.
Do sự lơ là trong việc bảo vệ môi trường, các đảo san hô đã và đang trải qua
giai đoạn biến dạng bởi sự thay đổi cơ cấu của các loài sinh, thực vật, bởi sự
khai thác quá mức các tài nguyên thiên nhiên như phân phốt phát, các loại rùa
và sinh vật dưới biển và sau cùng bởi sự ô nhiểm môi trường.
Những loại sinh, thực vật
bị ảnh hưởng:
- Chim: lính đồn trú trên các đảo dùng súng để săn chim và lấy
trứng từ các tổ chim, tổ yến đã khiến chúng sợ hãi phải di chuyển từ các đảo
lớn sang các đảo nhỏ.
- Rùa: số lượng rùa (trong số này có vài loại hiếm muộn như
green turtle và hawksbill turtle) và trứng sinh ra trên đảo cũng giảm đi do
việc lính trên đảo dùng vũ khí giết rùa cho mục đích thương mại và việc mang
gia súc lên đảo cũng đã ảnh hưởng đến lối sống thiên nhiên của loài rùa.
- Các loài thủy sản: việc sử dụng quá nhiều tàu thuyền với
cách thức đánh cá bừa bãi như dùng loại lưới với dây xích cuốn tròn kéo sát
dưới đáy biển (loại dụng cụ này đã bị cấm tuy nhiên một số ngư phủ vẫn còn
dùng), cũng như việc sử dụng chất độc cyanide và dùng chất nổ để giết cá đã làm
tổn hại đến môi trường sinh trưởng và đã làm tuyệt giống một số loại cá hiếm
qúy.
- San hô: bị ảnh hưởng lây qua việc dùng chất nổ, chất độc và
quá nhiều tàu thuyền khai thác thủy sản.
Các loại thương thuyền, tàu dầu
và các tàu đánh cá khi hoạt động cũng như khi hải hành ngang qua biển Đông đã
phế thải các chất dơ bẩn có hại cho san hô.
Ngoài ra sự gia tăng nhiệt độ
trên quả địa cầu (Global Warming) đã
làm gia tăng nhiệt độ nước biển tạo nên độc tố làm hại tế bào tăng trưởng san
hô.
- Thực vật: do nhu cầu lên đảo tìm hái lá những loài dược thảo
và việc đốn bừa bãi những loài cây qúy đã gây nên khó khăn trong việc bảo tồn,
tìm hiểu nguồn gốc và công dụng của chúng.
Chú Thích
- Hải lý (hl) = Nautical mile = 1,852 m
- Dựa theo tài liệu của TC/CTCT thì diện tích đảo HS là 3,5 km2. Nhưng căn cứ
vào tài liệu của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Nguyễn Nhã và Gerald Kosh thì con số này
không chính xác.
- HQ Đại úy Trần Kim Diệp, Trưởng phòng Tình Báo (P.2) Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng
I Duyên hải cùng với phái đoàn Công binh được lịnh ra đảo Hoàng Sa để nghiên
cứu việc xây phi đạo trên đảo này. Phái đoàn theo HQ 16 rời Đà Nẵng ngày 14 và
đến Hoàng Sa ngày 15/01/1974. Đại úy Diệp đã có mặt trên HQ 5 trong lúc xảy ra trận hải chiến.
* Chi tìết về địa lý như tọa độ,
diện tích, chiều cao, độ sâu hầu hết dựa trên các tài liệu trong tham khảo [6]
[7].
** Hầu hết các tài liệu đều cho
Phú Lâm là đảo lớn nhất, ngoại trừ tài liệu của Bộ ngoại giao HK [theo tài liệu này thì diện tích đảo Linh
Côn là 2,11 km2 (dài 2,560 m ngang 823 m), diện tích đảo Phú Lâm là 2,006 km2 (dài 1,829 m ngang 1,097 m)]
***** Toạ độ các đảo, bãi đá ngầm, cồn cát và một
số chi tiết đã được tu chỉnh trong phần I (Điạ lý)) được dựa vào tài liệu “Islands of the South
China Sea” của Phòng Tình báo và Nghiên cứu/Bộ Ngoại giao Hoa kỳ và tài liệu “Islets of the South China Sea”
của Hải Quân Hoa Kỳ.
****** Bài đã đăng trong Đặc san Nghiên cứu Văn hóa
Đồng Nai - Cửu Long số 4 tháng 7-2006 chỉ có phần I - Địa lý, II - Khí hậu và
III - Sinh, Thực vật.
- Chiều cao các đảo một số dựa trên map 2785 - U.S.Navy Hydrographic Office -
revised May 31, 1965
Tác giả bổ túc thêm một số chi tiết đã được tìm thấy gần đây và viết tiếp
phần IV “Sơ lược về tầm quan trọng của quần đảo Hoàng Sa.”
Phần Lịch sử Hoàng Sa đã
được một số học giả nổi tiếng viết nhiều bài nghiên cứu và phân tích rất giá
trị, vì thế tác giả xin thông qua phần này.
Tham khảo
- [1] Department of the US Army. “Chinese Amphibious Assaults in the Paracel Archipelago.” December 27, 1974.
-
[2] John Thornton. “The English Pilot, the Third Book.” London 1703
- [3] Lưu Văn Lợi. “The Sino-Vietnamese difference on the Hoàng-Sa and
Trường-Sa archipelagoes.” Thế Giới
Publishers - Hà-Nội 1996.
-
[4] CIA. “The World Factbook - Paracel Islands.” 2006-2014
- [5] NARA “Map study of Paracel Islands” 21 May 1945.
-
[6] Tọa độ hải đảo
dựa theo [National Geospatial-Intelligence Agency “South China Sea and the Gulf of Thailand (Pub 161)” Springfield,
Virgina United States Government 2011].
-
[7] Department of State-Bureau of Intelligence and Research “Islands of the
South China Sea” July 1971
-
[8] Cincpac command history – 1973, Volume I
-
[9] World Aero Data. “Woody
Island.” February 16, 2006
-
[10] World Meteological Organization. “Regional Association II - Twelfth
Session, Seoul” September 19-27 năm
2000.
-
[11] Islets of the south china sea department of the navy Feb-1974
- [12] Tổng cục Chiến tranh Chánh trị/Cục Tâm lý chiến. “Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa.” ấn hành 1974.
-
[13] Lê Văn Thự. “Sự thật về trận hải chiến Hoàng-Sa.” Calitoday March 08-
2004.
-
[14] Tuyển Tập Hải Sử “Hải chiến Hoàng Sa” Tổng Hội HQHH ấn hành 2004 – USA
-
[15] Embassy of Vietnam-Washington, D.C. “The Vietnam Islands of Paracel &
Spratley.” April 02, 1959.
-
[16] Thềm Sơn Hà “Trung Cộng đổ bộ tấn công quần đảo Hoàng Sa tháng 1-1974” www.hqvnch.net
Gerald E. Kosh, viên chức DAO (Defense Attaché Office) thuộc toà Tổng Lãnh sự/HK
tại Đà Nẵng. Tháp tùng HQ 16 ra HS và bị TC bắt trong ngày 20-1-1974.- [17] Trần
Thế Đức. “Hoàng-Sa qua những nhân chứng.” Tập san Sử địa số 29 - Sài-Gòn 1975
- [18] Trần Kim Diệp. “Bên lề
trận hải chiến Hoàng Sa.” Bản tin Tình Đại dương (khóa 17/ SQHQ/ Nha-Trang)
tháng 7/2004.
-
[19] Chinanews.cn. "Freshwater reserves discovered amidst coral
reef." April 06,2005
-
[20] Chinamil.com. "Military scientific workers find freshwater
reserves." April 07, 2005
-
[21] Điện văn số 104813 ngày 15/10/1973 từ TĐS/HK/SG gởi BNG/HK
-
[22] Lướt Sóng. “Quần đảo Hoàng Sa và chủ quyền VNCH” Đặc san Lướt sóng- Phòng
TLC /BTL /HQ phát hành năm 1974.
- [23] “World list of lights for the Amateur Radio Lighthouse Society” cập nhật
hóa cho đến ngày 12 tháng 6 năm
2008 thì hải đăng trên đá Bắc (North reef) và trên đá Bông Bay (Bombay reef) đang hoạt động trong quần đảo Hoàng Sa.
- [24] Department of the Navy. “Paracel Islands” tháng 2/1974.
- [25] Weatherbase. “Historical weather for đảo Hoàng-Sa and for Woody Island.”
- [26] Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. “Straight
baselines claim” ngày 9 tháng 7-1996
- [27] Foreign relations of the United States, 1955-1957
-
[28] Lt. Colonel Katsushi Okazaki. “China's Seaward Adventurism and the Japan –
US alliance.” Global Security-1997
- [29] James C.Bussert. “Facilities in the South China Sea reflect technologies
otherwisw hidden.” Signal Magazine October, 2003.
-
[30] Energy Information Administration. “South China Sea Tables and Maps”
September 2003
- [31] Điện văn số 106756, ngày 11/6/1974 từ toà Lãnh sự/HK/HK gởi BNG/HK
- [33] Monique Chemillier-Gendreau. “La Souverainete sur les Archipels Paracels
et Spratleys”, Paris 1996 (bản
dịch qua Anh ngữ)
- [34] Điện văn số 104813, ngày15/10/1973 từ TĐS/HK/SG gởi BNG/HK.
(Đường thẳng căn bản xác định biên giới quần đảo Hoàng Sa đã được Trung Cộng vẽ lại vào năm 1996
gồm cả đá Bắc và đảo Tri Tôn) [26]
No comments:
Post a Comment