TUẦN DƯƠNG HẠM (WHEC-High
Endurance Cutter)
(trích trong "Sự Thật Hải Chiến Hoàng Sa 19/01/1974" tái bản năm 2022)
Thềm Sơn Hà
Trong Thế Chiến thứ II, Hải quân Hoa Kỳ đã sử dụng loại thủy phi cơ để đáp ứng nhu cầu
hành quân tại các vùng hải đảo xa xôi ngoài khơi Thái Bình Dương không có phi
trường.
Do vậy, Hải quân HK đã đóng 30 chiến hạm loại Barnegat Class Small Seaplane
Tender (AVP) với mục đích cung cấp tiếp liệu, phụ tùng thay thế, nhiên liệu, sửa
chửa, và bến cập cho các phi đội thủy phi cơ.Các chiến hạm này được trang bị rất hùng hậu để bảo vệ các căn cứ thủy phi cơ đã được thiết lập. Có chiếc được trang bị đến 4 khẫu đại bác 127 ly và 8 khẩu 20 ly như USS Casco AVP-12, USS Coos Bay AVP-25, có chiếc trang bị 3 khẩu 127 ly và một dàn 4 đại bác 40 ly như USS Bering Strait AVP-34, USS San Carlos AVP-51, hoặc được trang bị cần trục để câu thủy phi cơ lên tàu sửa chửa như chiếc USS Absecon AVP-23. (www.en.wikipedia.org/wiki/Barnegatclass_small_seaplane_tender)
LÝ DO CHỮ “W” ĐỨNG TRƯỚC TÊN CÁC LOẠI TÀU TUẦN DUYÊN HOA KỲ
Năm 1941, do nhu cầu chiến tranh trong Thế chiến thứ II, Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ (US Coast Guard) đặt dưới sự sử dụng của Hải quân Hoa Kỳ. Các chiến hạm loại Barnegat * small seaplane tender (AVP) hạ thủy trong khoảng đầu thập niên 1940 được trang bị vũ khí rất hùng hậu .
Để phân biệt, Hải quân HK đã chọn chữ “W” đứng trước các chữ viết tắt của loại tàu thuộc Coast Guard.
Một số lý do đã được nêu ra để giải thích vì sao Hải quân và Tuần duyên HK đã chọn chữ "W" để chỉ định cho chiến hạm, chiến đĩnh thuộc Lực lượng Tuần duyên, tuy nhiên không ai chắc chắn lý do nào đúng nhất.
Trong mọi trường hợp, thói quen đã trở thành thông lệ và mỗi tàu Tuần duyên vẫn còn mang chữ “W”.
WAL : USCG lightship WAL-523 (trở thành Kiểm báo hạm 460 của Hải quân VNCH)
WAGB : USCG icebreaker
WHEC : USCG high endurance cutter (Tuần dương hạm, Hải quân VNCH tiếp nhận 7 chiếc)
WIX : USCG auxiliary, training ship
WLB : USCG seagoing buoy tender
WLI : USCG inland buoy tender
WLIC : USCG inland construction tender
WLR : USCG river buoy tender
WMEC : USCG medium endurance cutter
WPB : USCG patrol boat (Tuần duyên đĩnh, Hải quân VNCH tiếp nhận 26 chiếc)
WTGB : USCG large icebreaking tug
WYTL : USCG small harbor tug
Năm 1965, tàu cỡ lớn của Coast Guard được xếp chung vào một loại có tên là CG High Endurance Cutters hay WHEC và chỉ còn giữ lại 1 khẩu đại bác 5” phía trước mũi.
Loại trung bình có tên là CG Medium Endurance Cutters hay WMEC.
Loại tuần tiễu cỡ nhỏ có tên là Patrol Boat hay WPB. (dựa theo www.uscg.mil/history)
* Sau khi chuyển nhượng cho Lực lượng Tuần duyên (Coast Guard), đổi tên thành loại Casco.
*** Từ năm 2003, Lực lượng Tuần duyên trực thuộc Bộ An ninh Nội vụ Department of Homeland Security.
TUẦN DƯƠNG HẠM TRẦN BÌNH TRỌNG – HQ 5
1.- TIỂU SỬ
a.-Trực thuộc Hải quân Hoa Kỳ
- 12 tháng 7-1943 khởi công tại Hải xưởng Lake Washington, Houghton, tiểu bang Washington.
- 11 tháng 3-1944 hạ thủy.
- 8 tháng 10-1944 bắt đầu hoạt động với tên USS Castle Rock AVP-35 trong khu vực trung tâm Thái Bình Dương với nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu giữa Saipan (đảo Saipan là đảo lớn thứ nhì thuộc quần đảo Mariana, nằm về hướng Bắc đảo Guam, cách 190 km).
- Tháng 3-1945, phục vụ cho thủy phi cơ tại Saipan kèm theo công tác hộ tống.
- Tháng 11-1945 đến tháng 1-1946, chuyên chở toán tình báo từ Guam đến Chichi Jima và Truk để nghiên cứu lực lượng Nhật phòng thủ nơi đây.
- Tháng 3-1946, trở về San Francisco nằm tại bến, chính thức ngưng hoạt động từ tháng 8-1946.
b.-Trực thuộc Tuần duyên Hoa Kỳ
Tháng 9-1948 chuyển nhượng cho lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ.
Chính thức thuộc về Lực lượng Tuần duyên từ 18 tháng 12-1948, đổi thành loại Casco với tên là USCGC Castle Rock WAVP-383, hoạt động trong khu vực duyên hải Đông Bắc Hoa Kỳ.
Ngày 1 tháng 5-1966 để phù hợp với nhiệm vụ mới, được gọi là High Endurance Cutter WHEC-383.
Năm 1971 trên đường đến Việt Nam, chiến hạm ghé Singapore, bị tai nạn ở hầm máy, chìm tại bến.
Sửa chửa xong, công tác tại Việt Nam từ 9 tháng 7 cho đến ngày ngưng hoạt động 21 tháng 12-1971.
c.- Trực thuộc Hải quân VNCH: chuyển giao cho Hải quân VNCH ngày 21 tháng 12-1971, được xếp vào loại Tuần dương hạm và đặt tên là Trần Bình Trọng HQ 5.
Trực thuộc Hải đội Tuần dương (Hải đội III), Bộ Tư lệnh Hạm đội.
Sau hải chiến Hoàng Sa, HQ 5 tham dự hành quân tìm kiếm các chiến sĩ đào thoát từ HQ 10 và hành quân THĐ 48 chiếm cứ 5 đảo ở Trường Sa do HQ Đại tá Nguyễn Văn May chỉ huy vào đầu tháng 2-1974.
Di tản sang Subic Bay, Phi Luật Tân tháng 5-1975.
d.- Trực thuộc Hải quân Phi Luật Tân
- 5 tháng 4-1976 bán cho Hải quân Phi.
- 23 tháng 6-1979 bắt đầu hoạt động với tên BRP Francisco Dagohoy PF-10.
- 9 tháng 6-1985 ngưng hoạt động.
- năm 1993 phế thải.
1.- TIỂU
SỬ
a.- Trực
thuộc Hải quân Hoa Kỳ
- 23 tháng 7-1941 khởi công tại Hải xưởng Lake Washington, Houghton, tiểu bang Washington
- 15 tháng 4-1942 hạ thủy.
- 12 tháng 4-1943 bắt đầu hoạt động với tên USS Chincoteague (AVP-24).
Trong thế chiến thứ II, tham dự các cuộc hành quân trong khu vực Thái Bình Dương, nhất là cuộc hành quân đổ bộ lên đảo Iwo Jima, Nhật Bản từ ngày 19 tháng 2 đến 16 tháng 3-1945.
- 21 tháng 12-1946, ngưng hoạt động, nằm tại cảng Beaumont, TX trực thuộc hạm đội trừ bị Đại Tây Dương.
b.- Trực thuộc Tuần duyên Hoa Kỳ
- 7 tháng 3-1949 chuyển nhượng cho US Coast Guard, đổi thành USCGC Chincoteague
(WAVP-375
- 1 tháng 5-1966 đổi thành loại Casco High Endurance Cutter WHEC-375 .
- 26 tháng 9-1966 chính thức chuyển giao Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ.
- tháng 6-1972 ngưng hoạt động.
c.- Trực thuộc Hải quân VNCH
- 21 tháng 6-1972, chuyển giao cho Hải quân VNCH, được xếp vào loại Tuần dương hạm và đặt tên là Lý Thường Kiệt HQ 16. Trực thuộc Hải đội Tuần dương (Hải Đội III) Bộ Tư lệnh Hạm đội.
- tháng 5-1975 di tản sang Subic Bay, Phi Luật Tân.
d.- Trực thuộc Hải quân Phi Luật Tân
- 5 tháng 4-1976 bán cho Hải Quân Phi.
- 27 tháng 7-1976, bắt đầu hoạt động với tên mới là BRP Andres Bonifacio PF-7.
- năm 1993 ngưng hoạt động.
- năm 2003 phế thải.
.
TUẦN DƯƠNG HẠM TRẦN BÌNH TRỌNG - HQ 5
- 26 tháng 9-1966 chính thức chuyển giao Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ.
- tháng 6-1972 ngưng hoạt động.
c.- Trực thuộc Hải quân VNCH
- 21 tháng 6-1972, chuyển giao cho Hải quân VNCH, được xếp vào loại Tuần dương hạm và đặt tên là Lý Thường Kiệt HQ 16. Trực thuộc Hải đội Tuần dương (Hải Đội III) Bộ Tư lệnh Hạm đội.
- tháng 5-1975 di tản sang Subic Bay, Phi Luật Tân.
d.- Trực thuộc Hải quân Phi Luật Tân
- 5 tháng 4-1976 bán cho Hải Quân Phi.
- 27 tháng 7-1976, bắt đầu hoạt động với tên mới là BRP Andres Bonifacio PF-7.
- năm 1993 ngưng hoạt động.
- năm 2003 phế thải.
.
TUẦN DƯƠNG HẠM TRẦN BÌNH TRỌNG - HQ 5
No comments:
Post a Comment